Wednesday, November 4, 2015

Bài Tường Thuật Phim “Terror in Little Saigon”

by Adam Clay Thompson, ProPublica, November 3, 2015 - Lê Tùng Châu dịch sang Việt ngữ

$pageIn
Lời người dịch: Thưa quý bạn đọc,

Hiện ngay vào giờ này, 11:00 PM Nov. 4, 2015 giờ Saigon, thì phim “Terror in Little Saigon” đã được công chiếu, các bạn có thể xem online ở đây hoặc ở đây.

Trong khi đó, có một bài Tường thuật (khá dài: 72 pages) Phim “Terror in Little Saigon” của A.C. Thompson nơi trang ProPubica (link thượng dẫn) mà hiện giờ chỉ gồm Introduction (Giới Thiệu) và 2 Parts (Phần) là Part I và Part II, còn Part III cũng là cũng là phần cuối, thì ProPubica hứa sẽ sớm đăng tiếp, đấy là phần tường thuật những đau khổ mất mát và nỗi kinh hoàng các thập niên sau đó do những người Việt ở Mỹ kể lại.

Tôi đang tuần tự dịch sang Việt ngữ của Phần Giới Thiệu và 2 Phần đầu, I và II. Xong được phần nào tôi sẽ đăng dần phần đó, mong bạn đọc đón theo dõi.

Bài tường thuật của A.C. Thompson khá chi tiết với nhiều hình ảnh cũng như ảnh chụp các tài liệu quý hiếm. Mời bạn đọc theo dõi.


Update Nov. 11, 2015: Bản Việt dịch (by Lê Tùng Châu) bài Tường thuật Phim “Terror in Little Saigon” (by A.C. Thompson) đã hoàn tất 3 phần Introduction, Part I và Part II. Part III đang chờ trang ProPublica đăng tiếp. Mời bạn đọc đón theo dõi.

LTC Nov. 11, 2015

= = = = =

Bạn đọc chú ý: Bài tường thuật của A. C. Thompson gồm 4 phần.
Phần 1: Giới Thiệu (Introduction)
Phần 2: Part I: Mặt Trận (The Front)
Phần 3: Part II: Việc Điều tra án mạng bế tắc gây nản lòng (A Failed Case Grows Colder)
Phần 4: Part III: Lưu Vong lần thứ hai (A Second Exile)
xin kéo xuống cuối mỗi phần để click vào phần kế tiếp hoặc quay lại phần trước... để đọc tùy ý.


Ký giả A.C. Thompson chuyên theo sát chủ đề công lý hình sự cho ProPublica. Anh là một ký giả thâm niên 12 năm hoạt động chủ yếu ở khu vực Vịnh San Francisco - nguồn ảnh: ProPublica, LTC saved

Đầu bài tường thuật của A.C. Thompson trên ProPublica, November 3, 2015

Khủng bố ở Little Saigon


Một cuộc chiến cũ lại bước theo sang một xứ sở mới


Giới thiệu



Các ký giả báo chí bị ám sát trên đất Mỹ, hết người này đến người khác.

Dương Trọng Lâm là người đầu tiên. Anh mới 27 tuổi, đã cho in một tập sách bằng tiếng Việt có tên là Cai Dinh Lang, như thể một thông điệp muốn gửi tới những người nhập cư trên toàn nước Mỹ. Một sáng nọ, có tay súng chờ sẵn khi anh bước ra khỏi căn hộ ở thuê trong một tòa cao ốc chung cư ở San Francisco và bắn anh với chỉ một phát duy nhất, viên đạn xuyên qua động mạch phổi ngay sát phía trên tim.

Với Phạm Văn Tập, chủ báo, thì kết thúc chậm hơn. Ông đang ngủ trong tòa soạn tọa lạc ở Garden Grove, California, thì có một kẻ phóng hỏa đốt nhà. Người ta nghe ông la hét trước khi chết vì ngạt khói.

Một trong những bản cuối cùng của tờ báo giấy Nguyễn Đạm Phong, cáo buộc Mặt Trận đã phỉnh gạt cộng đồng người Mỹ gốc Việt - năm thứ nhất, bộ mới số 17, từ ngày 1 đến 15 tháng 5 năm 1982, tại Houston. nguồn ảnh: ProPublica
Tại Houston, kẻ sát nhân truy đuổi Nguyễn Đạm Phong chạy ra khỏi nhà khi ông vẫn còn mặc bộ pyjamas trên người rồi bắn ông bảy phát bằng một khẩu súng lục cỡ nòng 45. Vụ giết người đã kết thúc tờ báo giấy Đạm Phong khổ lớn ra mỗi tháng hai lần mà ông đã đặt tên là Tự Do.

Ký giả A. C. Thompson và ông Nguyen Nguyen, con trai của nhà báo Nguyễn Đạm Phong với một trong những tờ báo Tự Do (ấn bản thời 1980"s tại Houston) có chạy Tít lớn ngay trên đầu trang nhất: "Khám Phá Tổ Chức Làm Tiền Người Tỵ Nạn" - screenshot [by LTC] from the film “Terror in Little Saigon”

Cả thảy năm nhà báo Mỹ gốc Việt đã cùng bị sát hại từ năm 1981 đến năm 1990. Tất cả đều làm các tờ báo nhỏ phục vụ cộng đồng người tị nạn đang trú tại Mỹ sau khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975. Còn có ít nhất hai người cũng đã bị mưu sát khác nữa.

Các đặc vụ FBI đều đồng tình rằng vụ sát hại các nhà báo, cùng với một chiến dịch đốt phá và bạo lực, chính là hành vi khủng bố dưới lệnh điều động của một tổ chức gọi là Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam, một nhóm tổ chức nổi trội do vài cấp chỉ huy quân đội cũ từ Nam Việt Nam sang, cầm đầu. Các đặc vụ FBI đưa ra giả thuyết rằng Mặt Trận đã đe dọa hoặc xử tử những ai chống lại và coi thường họ, tài liệu FBI còn cho thấy thậm chí đôi khi chỉ đơn giản là [Mặt Trận] ra tay cả với những người có cảm tình với phe cộng sản vốn đã chiến thắng tại Việt Nam. Nhưng FBI cũng chưa hề bắt được một vụ tội phạm đơn lẻ nào trong chuỗi các vụ giết người lẫn tội phạm khủng bố đó, và các hồ sơ điều tra tố tụng các vụ án ấy đã bị chính thức đóng lại chừng hai thập niên trước đây.

Các cuộc dùng bạo lực tấn công là cách người ta thường làm cốt để bịt miệng các nhà báo một cách tàn bạo, gây ra bao xáo động, gieo tang tóc cho cộng đồng và làm dư luận phẫn nộ. Những tháng tiếp sau vụ phóng viên Don Bolles của tờ Arizona bị ám sát vào năm 1976, một nhóm gần 40 phóng viên trên toàn quốc gần như tỏ thái độ khi chính họ chọn cách tiếp tục thực hiện những bài phóng sự điều tra về tội phạm có tổ chức đồng thời ra một tuyên ngôn về tự do ngôn luận. Sau cùng, người ta đã xác định được thủ phạm trong những kẻ tình nghi và hắn đã bị kết án. Việc giết một loạt các nhân viên tờ tuần báo Charlie Hebdo tại Pháp đã làm dấy lên các buổi trắng đêm cầu nguyện và gây ra một đợt sóng biểu tình trên khắp thế giới.

Năm ngoái, khi đám binh sĩ của tập đoàn Nhà nước Hồi giáo ra tay xử tử phóng viên chiến trường James Foley, Tổng Thống Obama đã cất lời ca ngợi ông như một con người “đã can đảm viết lên những câu chuyện tôn vinh nhân quyền bền bỉ” và hứa sẽ săn lùng kẻ giết người.

"Chặng đường của chúng ta còn dài", Obama nói. "Chúng ta nên kiên nhẫn. Rồi Công lý sẽ được thực hiện"

Đã từ lâu, thân nhân của các nhà báo Mỹ gốc Việt bị giết chết đã chẳng còn hy vọng nhìn thấy công lý được thực thi. Họ vẫn còn thất vọng và hoang mang. Họ đã kỳ vọng biết bao vào chính quyền do chính họ bầu chọn, vốn từng hứa hẹn đầy khích lệ về sự tự do và cũng từng khiến họ tin vào quyết tâm mưu cầu công lý của chính quyền đó.

Đầu năm 2014, ProPublica và Frontline mở lại cuộc điều tra. Chúng tôi thu được hàng ngàn trang tài liệu của FBI mới được giải mật, cũng như các bức điện tín của CIA và các tập tài liệu (file) về người nhập cư. Chúng tôi phát hiện thêm nhiều chứng cứ còn tiềm tàng cũng như các nhân chứng mà trước đây cả FBI lẫn chính quyền địa phương chưa hề khai thác - có cả những cựu thành viên của Mặt Trận mà trong đó có người đã kể cho chúng tôi nghe về nhóm đã điều hành biệt đội ám sát bí mật ở Mỹ. Chẳng qua đó chỉ là một trò bẩn thế nhưng trong nhiều năm trời FBI ra công săn lùng truy tìm lại chưa bao giờ đưa ra ánh sáng được một chứng lý thuyết phục nào.

Mặt Trận đã công khai quyên tiền ở Mỹ để khởi động lại cuộc chiến Việt Nam, thậm chí còn tung ra 3 cuộc xâm nhập [Việt Nam] từ biên giới của Thái Lan và Lào nhưng bất thành. Công trình tìm tòi của chúng tôi cho thấy rằng các quan chức tại Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Cơ quan Tình báo Trung ương và FBI đều biết về hoạt động quân sự của Mặt Trận trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng chính quyền liên bang chẳng làm gì hết để thực thi các đạo luật trung lập theo đó ngăn chận công dân của đất nước này ra sức hoạt động lật đổ một chính quyền ngoại quốc.


Ở Pearland, Texas, bên ngoài Houston, có một nghĩa trang được mấy hàng thông và sồi cao bao bọc. Gần phía sau của khu nghĩa địa, kế bên dòng suối đục, là nơi tọa lạc bia mộ của Nguyễn Đạm Phong. Cỏ dại đã che lấp quanh tấm bia mộ nhỏ bé hình chữ nhật. Một bông hồng duy nhất đã chết khô đen đúa vẫn còn đứng trong chiếc bình sắt. Nhưng những dòng chữ được tạc vào đá cẩm thạch khoảng 33 năm về trước vẫn còn đọc được rõ: Bị giết trong khi theo đuổi chân lý và công lý qua việc làm báo.

Giờ đây, ProPublica và Frontline, thông qua bộ phim tài liệu truyền hình "Khủng bố ở Little Saigon" sẽ kể cho chúng ta nghe câu chuyện tại nơi này mà có một thời, sự hăm dọa và sát nhân đã ngự trị mà chẳng ai nắm biết rõ nội vụ.

"Cáo Thị Tầm Nã" bằng tiếng Việt vừa được chạy đăng trên Web của ProPublica, sau ngày 3 tháng 11/2015 - screenshot by LTC. Bạn đọc chú ý: bản Việt dịch nơi cáo thị này đã dịch nhầm danh tánh của Mặt Trận (nguyên trong Anh ngữ là: "the National United Front for the Liberation of Vietnam" ra Việt ngữ là: "Mặt trận Dân tộc Giải phóng Việt nam". Bản dịch Đúng phải là: "Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam"
Các "Cáo Thị Tầm Nã" bằng Việt ngữ vừa được chạy đăng trên Web của ProPublica, sau ngày 3 tháng 11/2015 - screenshot by LTC

(còn tiếp)


by Adam Clay Thompson, ProPublica, November 3, 2015 - Lê Tùng Châu dịch sang Việt ngữ




Văn bản nguyên văn:

“Terror in Little Saigon”


An old war comes to a new country.

by A.C. Thompson, ProPublica November 3, 2015 in partnership with Frontline


Introduction

The journalists were assassinated on American soil, one after another.

Duong Trong Lam was the first. He was 27 years old and ran a Vietnamese-language publication called Cai Dinh Lang, which he mailed to immigrants around the country. A gunman found him as he walked out of his San Francisco apartment building one morning and shot him, a single bullet piercing his pulmonary artery, just above the heart.
For magazine publisher Pham Van Tap, the end came more slowly. He was sleeping in his small office in Garden Grove, California, when an arsonist set fire to the building. He was heard screaming before he succumbed to smoke inhalation.

In Houston, a killer chased Nguyễn Đạm Phong from his home in his pajamas and shot him seven times with a .45-caliber handgun. The murder marked the end of Đạm Phong’s twice-monthly broadsheet newspaper, which he had named Tu Do: Freedom.

All together, five Vietnamese-American journalists were killed between 1981 and 1990. All worked for small publications serving the refugee population that sought shelter in the U.S. after the fall of Saigon in 1975. At least two other people were murdered as well.

FBI agents came to believe that the journalists’ killings, along with an array of fire-bombings and beatings, were terrorist acts ordered by an organization called the National United Front for the Liberation of Vietnam, a prominent group led by former military commanders from South Vietnam. Agents theorized that the Front was intimidating or executing those who defied it, FBI documents show, and even sometimes those simply sympathetic to the victorious Communists in Vietnam. But the FBI never made a single arrest for the killings or terror crimes, and the case was formally closed two decades ago.

Violent attacks on journalists often function as a brutal form of censorship, and as a result often stir public mourning and outrage. In the months after Arizona reporter Don Bolles was murdered in 1976, a group of nearly 40 reporters from around the country dedicated themselves to continuing his reporting on organized crime and making a statement about freedom of expression. Suspects in the murder were ultimately identified and convicted. The mass slaying of staffers at the French weekly Charlie Hebdo sparked vigils and protests around the world.

Last year, when fighters from the Islamic State Group executed war correspondent James Foley, President Obama praised him as a man “who courageously told the stories of his fellow human beings,” and promised to hunt his killers.

“Our reach is long,” Obama said. “We are patient. Justice will be done.”

The families of the murdered Vietnamese-American journalists long ago gave up hope of seeing justice done. They remain disappointed and confused. They expected more of the government they had adopted as their own, excited by its promise of liberty and convinced of its fearlessness in seeking the truth.

Early in 2014, ProPublica and Frontline reopened the investigation. We obtained thousands of pages of newly declassified FBI documents, as well as CIA cables and immigration files. We uncovered additional leads and witnesses not previously interviewed by either the FBI or local authorities — including former members of the Front who told us the group had operated a secret assassination unit in the U.S. It was a tip the FBI had chased for years but had never conclusively proved.

The Front openly raised money in America to restart the Vietnam War, even launching three failed invasions from the borders of Thailand and Laos. Our reporting shows that officials at the State Department, the Department of Defense, the Central Intelligence Agency and the FBI knew about the Front’s military operations in Southeast Asia. But federal authorities never acted to enforce the Neutrality Act, which bars residents and citizens of this country from efforts to overthrow a foreign government.

In Pearland, Texas, outside of Houston, there is a cemetery ringed by tall pine and oak trees. Near the back of the graveyard, close to a muddy stream, lies the headstone of Nguyễn Đạm Phong. Grass has crept over the small, rectangular marker. A single dead rose, withered and black, stands in a metal vase.
But the words chiseled into the marble some 33 years ago are still legible: Killed in pursuit of truth and justice through journalism.

Today, ProPublica and Frontline, here and in the television documentary “Terror in Little Saigon,” tell the story of a reign of intimidation and murder for which no one has been held to account.


(continue)
$pageOut
$pageIn

Phần I


Mặt Trận

nguồn ảnh: ProPublica

Ông ta là Hoàng Cơ Minh, thường thấy với đầu tóc thưa đen đậm bù xù cùng với bộ ria mép cánh bướm. Năm 1983, Minh tiến hành một đại hội trọng thể ở Washington D.C. để đưa ra tuyên bố: Ông sẽ chiếm lại Việt Nam.
Minh, một cựu sĩ quan hải quân Nam Việt Nam, nói với cử tọa đông đảo tham dự đại hội rằng ông đã gầy dựng được một lực lượng khả dĩ lật đổ được chính quyền Hà Nội và giải phóng quê hương ông thoát khỏi ách độc tài toàn trị của Cộng sản.
Đám đông cử tọa là hàng ngàn người tị nạn Việt Nam đã tháo chạy khỏi đất nước sau khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975 – như bừng lên cảm xúc phấn khích dâng trào òa vỡ với những giòng nước mắt mừng vui. Trong bộ đồ bà ba đen, với chiếc khăn rằn dài quấn quanh cổ, Minh không ngớt tươi cười và như trôi theo dòng phấn khích ngất ngây bùng nổ của đám đông. Trong cuốn phim Video ghi lại sự kiện này người ta thấy Minh vung mạnh hai tay lên không trung và rồi vẫy chào như một nguyên thủ quốc gia.
Vài năm trước, Minh đã khởi dựng được một đội quân du kích có tên gọi là Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam. Nhóm này đã thiết lập được một căn cứ nơi một chốn hoang địa ở vùng Đông Nam Á - một mật cứ khả dĩ dễ tiếp cận Việt Nam – cũng như đã xây dựng được một hệ thống các xứ bộ khắp nước Mỹ nhằm tổ chức quyên tiền cho việc tiến hành các cuộc xâm nhập sắp tới.

Có vẻ như những xứ bộ ở Mỹ đã phát triển được thêm một cái gọi là một Mặt Trận thứ hai, cái này nằm ngay trong lòng nước Mỹ: các thành viên Mặt Trận đã lấy bạo lực để bịt miệng những người Mỹ gốc Việt nào dám nêu câu hỏi thắc mắc về đường lối chính trị hay mục tiêu của nhóm. Kêu gọi bình thường hóa quan hệ với phe thắng cuộc Cộng sản để về nước thôi là cũng đủ để lãnh đòn thù hoặc, trong một vài trường hợp, là một bản án tử.

Cuối cùng, cục điều tra liên bang FBI cũng đã mở một cuộc điều tra khủng bố trong nước nhắm vào các hoạt động của Mặt Trận. Hàng ngàn trang hồ sơ FBI mới được giải mật do ProPublica và Frontline thu thập được đã cho thấy các đặc vụ đều cùng đi đến mối nghi ngờ rằng nhóm của Minh đã dàn dựng vụ sát hại các nhà báo Mỹ gốc Việt, cũng như chủ mưu khai triển một loạt các vụ đốt phá, đánh bom, hành hung và đe dọa giết người.
Trong một bản ghi chép chưa hề được công bố từ trước tới giờ, một đặc vụ / điều tra viên FBI có 1 dòng trích chú ngắn gọn là: "Mặt Trận", viên đặc vụ viết, đã "thực hiện một chiến dịch để dập tắt tất cả các tiếng nói đối lập"
Phạm vi của chủ trương khủng bố bị nghi ngờ ấy còn rộng lớn hơn nữa. Nhiều nhà báo đã bị giết ở Texas, California và Virginia. Một chuỗi các hoạt động tội ác trải dài từ Montreal đến Orange County, California. Những đe dọa giết chết đã được tung ra – đến các cá nhân, gia đình và các doanh nghiệp trên cả nước. Các nhà điều tra tin rằng Mặt Trận cũng đã gửi thông điệp phổ biến đến cộng đồng để thừa nhận những hành vi tội ác đó.
Thế nhưng, khoảng 30 năm sau, FBI đã chẳng bắt giữ được người nào liên quan đến những hoạt động bạo lực hay khủng bố đó, những kẻ phải chịu trách nhiệm hay bị buộc tội khủng bố lại càng ít hơn nhiều. Đã bao phen các sở cảnh sát địa phương đã có mở cuộc điều tra và rồi đã kết thúc mà không đem lại một giải pháp nào cho vấn đề. Cục điều tra liên bang FBI âm thầm đóng lại các cuộc điều tra của mình vào cuối thập niên 1990’s, biến nó thành một trong những vụ trọng án khủng bố chưa được đưa ra ánh sáng còn dở dang quan trọng nhất ở trong lòng nước Mỹ.

Để khai quật lại những cứ liệu lịch sử vốn đã bị một đa số người Mỹ cố tình che dấu đi như thế này, ProPublica và Frontline đã tranh tiên dành quyền tiếp cận và nghiên cứu kỹ lưỡng các dữ liệu lưu trữ những vụ trọng án của FBI, cũng như hồ sơ thu thập được đang lưu nơi các cơ quan thực thi pháp luật địa phương ở Houston, San Francisco và vùng phụ cận Washington D. C. Nhờ đó, chúng tôi đã có thể lần theo manh mối và tiếp cận được các cựu thám tử cảnh sát, các điều tra viên liên bang và các công tố viên, cũng như một số kha khá các nghi phạm nổi cộm. Chúng tôi cũng đã phỏng vấn nhiều cựu viên chức quân sự cũng như dân sự từng làm việc trong chính phủ Mỹ, Việt Nam và Thái Lan.
Đồng thời, chúng tôi cũng đã dò tìm gặp và nói chuyện với hơn hai chục cựu thành viên Mặt Trận, đã lần theo vết nhiều cựu binh sĩ Mặt Trận, và làm những chuyến du hành sang cả Thái Lan để giáp mặt những cựu du kích quân người Lào mà vốn một thời đã từng sát cánh chiến đấu cho Mặt Trận.
Cuối cùng, chúng tôi cũng đã bỏ ra nhiều thì giờ gần cận với thân nhân của những người quá cố, với cả những người đã bị bắn hoặc bị đánh đập, hành hung. Nhiều nạn nhân vẫn không chịu nói ra một cách công khai - hoặc vì họ vẫn còn sợ hãi hoặc vì họ đã trở nên chán ngán tiêu cực chẳng còn tin tưởng gì vào nền công pháp Hoa Kỳ.
Điều tra của chúng tôi đành phải lột trần sự thất bại của chính quyền, đã không hạn chế được nạn bạo lực do Mặt Trận chủ trương, và gợi ý cho các chính khách đang có nhiều triển vọng hiện nay nên theo đuổi việc đặt FBI hoặc những cơ quan hữu quan phải quyết định mở lại các vụ án ấy. Các thông tin mới gồm cả những bản kê khai nhân thân của các cựu thành viên Mặt Trận chưa từng bị pháp luật sờ tới, trong số đó có kẻ đã thừa nhận trách nhiệm việc Mặt Trận đã giết hại 2 trong số các nhà báo thiệt mạng. Những ghi chép và các cuộc phỏng vấn thu thập được cho thấy, để thực hiện biện pháp kỷ luật nhằm thu được sự phục tùng cưỡng bức trong đội quân kham khổ của mình ở ngoài phạm vi Hoa Kỳ, Minh đã ra lệnh xử tử các tân binh theo ông, có thể lên tới hơn 10 người. Những người thiệt mạng đó hẳn là gồm toàn những công dân Mỹ gốc Việt, đem lại một cơ hội vào cuộc cho cơ quan FBI điều tra tội ác.
ProPublica và Frontline cũng đã ngỏ lời đến các quan chức cao cấp hiện nay của FBI để được trao đổi với cục điều tra về chủ đề Mặt Trận. Cục trưởng James Comey cũng như các chuyên gia của bộ phận chuyên trách khủng bố quốc nội đã từ chối cuộc trò chuyện. FBI cũng không trả lời một loạt các câu hỏi chi tiết về các việc đã làm cũng như không làm của cục trong suốt nhiều năm thời mà việc điều tra còn hiệu lực. Thay vào đó, họ đã ban hành một tuyên bố như sau:

"Vào đầu thập niên 1980's, cục điều tra liên bang FBI đã phát động một loạt các cuộc điều tra về các vụ tấn công bị cáo buộc có dính tới động cơ chính trị trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Khởi thủy, việc điều tra được tiến hành như những chuyên án trên khắp các chi nhánh của cục, nhưng về sau, các hướng điều tra đã được hợp nhất làm một vụ với định danh có tên mã là 'VOECRN' thuộc thẩm quyền của cục trưởng kế nhiệm là Louis Freeh. Nhiều vụ đã được các chuyên gia giàu kinh nghiệm FBI dẫn đầu và đã thu thập được nhiều bằng chứng cũng như đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn đồng thời phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư Pháp và các luật sư để xác định những kẻ chịu trách nhiệm về những tội ác đã gây ra và đem lại công lý cho các nạn nhân. Bất chấp những nỗ lực đó, suốt 15 năm điều tra, Bộ Tư Pháp và FBI cùng kết luận rằng cho đến nay, vẫn chưa có đủ bằng chứng để thực thi việc truy tố"


1 Trang bản báo cáo tóm tắt của FBI về tội phạm khủng bố - nguồn ảnh: ProPublica

Các phát ngôn nhân của các cơ quan khác thuộc chính phủ cũng đều biết rõ sự hiện hữu của Mặt Trận nhưng cũng từ chối bình luận.

Sau cùng, Minh vẫn cố xúc tiến 3 cuộc xâm nhập vào Việt Nam tuy bất thành và đã chết trong một chuyến xâm nhập, vào năm 1987. Sau hàng chục năm bị nghi ngờ theo đuổi chính sách khủng bố kéo dài từ 1980 đến 1991, Mặt Trận đành chịu phân rẽ làm đôi và giảm sút thanh thế. Một số cựu nhân sự cao cấp của Mặt Trận đã chết; những người khác còn sống rải rác trên lãnh thổ Hoa Kỳ thì đã về hưu sau một thời làm bác sĩ, chủ nhà hàng hoặc viên chức quận hạt.
Trong số các cựu thành viên Mặt Trận mà ProPublica và Frontline phỏng vấn, có người khăng khăng là tổ chức của họ không bao giờ tham gia vào bất cứ hành động bạo lực nào tại Mỹ.
Một cư dân Houston từng tham gia tổ chức trong những ngày đầu là Pham To Tu đã thốt lên: "Không bao giờ. Không bao giờ". Ông nói thêm: "Kẻ thù của tổ chức đã phao tin đồn về chúng tôi".
Thỉnh thoảng, các cựu chỉ huy của Mặt Trận cố dốc sức cho các hoạt động tưởng niệm hoặc kêu gọi đoàn kết hoặc tập hợp lực lượng nhằm lật đổ chế độ Hà Nội. Họ lẫn mình vào dòng người vận cùng những bộ đồng phục sáng màu bắt buộc. Không khí tại các sự kiện nhuốm vẻ tự hào và tự chế nỗi căm tức, cay đắng và thách thức.
Trang Q. Nguyễn, một đồng sáng lập của Little Saigon TV và Radio ở Orange County, California, cho biết, việc Mặt Trận ra sức đe dọa các nhà báo thì trong giới truyền thông Mỹ gốc Việt ai cũng biết cả. Và cô cũng nói rõ lý do tại sao khiến cô nghĩ rằng tổ chức [Mặt Trận] lại có thể trốn thoát được tầm kiểm soát của các cơ quan công quyền: vì "Mọi người đều sợ hãi"

Cũng như nhiều người Việt Nam vượt thoát sang Mỹ sau ngày tàn chiến cuộc, Hoàng Cơ Minh đã phải trải qua trạng thái hụt hẫng khó chịu khi đặt chân đến đất nước này.
Là người có học, ông đã từng theo học tại Luật khoa Đại học đường Sài Gòn và các Học viện Hải quân Nam Việt Nam, sau đó, vào thập niên 1960, theo học tại Trường Naval Postgraduate ở Monterey, California. Trong chiến tranh, ông đã chỉ huy một tuần dương hạm, có trọng tải 370 tấn với thủy thủ đoàn gần 40 người. Ông giữ cấp bậc Thiếu tướng trong Hải quân Nam Việt Nam.

Richard Armitage (tên đầy đủ là Richard Lee Armitage) sinh 1945, từng đảm nhiệm "Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế" thứ 19, từ 1983 - 1989 dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan (1911-2001), Tổng Thống thứ 40 của Hoa Kỳ (từ 1981-1989)
Richard Armitage, một cựu sĩ quan Hải quân Mỹ, người đã từng sát cánh với Hải quân Nam Việt Nam trước khi thăng cấp vào Ngũ Gíac Đài trong thập niên 1980’s, có biết Minh là một tướng tài và gọi ông là "nhà quân sự nổi trội"
Nhưng đến năm 1975, Minh trở thành người vong quốc cũng như mất cả một chỗ dựa thiết cận của Hải quân ngày nào. Ông bỗng mất sạch ở nước Mỹ vào cái ngày Sài Gòn rơi vào tay Bắc Việt. Thời điểm đến Mỹ, theo như hồ sơ nhập cư cho thấy, ông có có $ 200 gởi trong một tài khoản ngân hàng của Nam Hàn, một chút xíu vàng, và một vài chiếc nhẫn chẳng mấy đáng giá. Ông không sao tránh khỏi túng thiếu.
Cùng với Armitage, Minh cũng có một số bạn bè vẫn còn tầm ảnh hưởng: James Kelly, sĩ quan hải quân Mỹ đã nghỉ hưu, trong cương vị một chỉ huy cao cấp trong Hội đồng An ninh Quốc gia trong chính quyền của Tổng thống Ronald Reagan và rồi George H. W. Bush, đã mời gia đình Minh về ở cùng ở vùng ngoại ô Virginia bên ngoài Washington. Cuộc sống mới của Minh ở Mỹ dù sao cũng bắt đầu một cách quá khiêm nhường. Ông đã phải nhận việc làm vườn cho mấy gia chủ ở ngoại ô và về sau đó nhận làm thuê như một thợ sơn nhà.
Chuyển đến sống ở một nước khác đâu có dễ dàng gì. Thế nhưng hàng trăm ngàn người Việt Nam đến Mỹ trong thập niên 1970’s chẳng hề là những người di dân kinh tế điển hình cốt để kiếm công việc làm tốt hơn hay điều kiện sống khá giả hơn. Họ chính là những người tị nạn từ một cuộc chiến tàn khốc đã làm thiệt mạng khoảng 3 triệu sinh mạng. Họ đã bị buộc phải chọn lựa giữa kiếp sống lưu vong hoặc cam chịu sống dưới sự cai trị tàn bạo của Cộng sản.

Hồ sơ xác định "quốc tịch" của Hoàng Cơ Minh khi ông đến Mỹ 1975

Cuộc hành trình tìm về miền đất hứa cũng chẳng khác nào câu chuyện trong Kinh Thánh thuở xưa, cũng đoàn người chen chúc trên con tàu quá tải và chấp nhận trú thân nơi một hoang đảo của các trại tị nạn khốn khổ khốn nạn, tất cả nhồi hết vào đoàn người di cư bao nỗi khiếp sợ hãi hùng.
Biết bao người ở lại Việt Nam thì hoặc chết dần mòn trong các trại tù cải tạo của cộng sản, bị bỏ đói và xác thân thì chịu bao nỗi khổ hình. "Người Cộng sản đã kịp lên danh sách những ai đã làm việc với người Mỹ và bêu tên họ là phản động", một người lính bộ binh Nam Việt Nam nhớ lại trong cuốn phim “Tears Before the Rain” như một dạng sử truyền khẩu. Ông nói tiếp: Họ "đã bị bắn ngay lập tức, ngay trên đường phố". "Cộng sản là một lũ người hoàn toàn vô nhân đạo"

Mỗi làn sóng người tị nạn mang theo bên mình những câu chuyện đau lòng về hoàn cảnh sống ở miền Nam Việt Nam khi phe Hà Nội chiếm trọn đất nước.
Vào thập niên 1980’s, có khoảng 400.000 người Việt sống ở Mỹ, kết thành quần thể ở những miệt San Francisco, San Jose, Houston, New Orleans, Northern Virginia và Orange County, California. Dẫu với bao thương tổn đã qua, cộng đồng cư dân mới hình thành thường được gọi là Little Saigons này đã chứng tỏ sự mau chóng hồi sinh, và theo thời gian họ đã tìm lại đuợc một sức sống tuyệt vời. Tuy vậy, thời những năm đầu, họ vẫn còn bị bó buộc quẩn quanh với bao nỗi khó khăn bởi rào cản ngôn ngữ, nỗi bi phẫn cho quê nhà, và lòng sôi sục phục hận.

Nhận ra nỗi khát khao đó, Minh liền dự phần vào và bắt tay vào việc lập một kế hoạch để thỏa mãn khao khát đó.
Sau khi từ bỏ việc sơn nhà thuê ở Virginia, năm 1981 Minh đã chuyển đến Fresno, California. Trên giấy tờ nhập cư, ông khai rằng đã được tiến cử vào một công việc mới là làm việc cho một tổ chức cứu trợ người tị nạn. Dù đã từng làm tham gia vào một nỗ lực như thế, nhưng hẳn là từ trước Minh đã bỏ ra nhiều năm tháng vận động trong giới cựu sĩ quan quân đội Nam Việt Nam cũng như các giới chức khác nuôi mộng trở về quang phục quê hương Việt Nam bằng vũ lực. Giữa lòng các giới đó, Minh dường như đã lấy lại được phong độ cũ đúng với tầm vóc của mình.
"Tôi đặc biệt ngưỡng mộ ông", ông Nguyễn Xuân Nghĩa, một cựu Đầu lãnh Mặt Trận đã nói như thế về Minh. Một cựu thành viên khác tôn vinh Minh như người "thông minh" và "dũng cảm".
Trong hoàn cảnh như thế, từ một tập hợp rời rạc ban đầu gồm những con người mong muốn trở về quang phục quê hương, họ đã kết với nhau lại thành một để tạo thành Mặt Trận, thì Minh nghiễm nhiên trở thành lãnh tụ. Từ công sức gieo trồng nhỏ nhoi ban đầu, với lòng tận lực hiến dâng tiếp nối, trong vòng hai năm thôi, ông đã có thể phát đi rộng hơn thông điệp của mình trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt.
"Chúng tôi quyết tâm vùng dậy lật đổ tập đoàn đầu sỏ Việt Cộng bằng vũ lực" -trong một truyền đơn của Mặt Trận thuở ban đầu. Mục đích của Mặt Trận là để lập nên một "nền cộng hòa nhân bản và tự do dân chủ"
Để làm được điều đó, các cuộc phỏng vấn và các tập tài liệu của FBI cho thấy, Mặt Trận đã mở ra một thứ luật tắc tàn nhẫn sắt lạnh, tin rằng chiến hữu của mình trong bất kỳ hành động nào cũng đúng miễn là nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh của họ lớn mạnh thêm.
Minh đã có một tầm nhìn lớn cho đội quân mà ông định thành lập. Mặt Trận sẽ không chỉ tuyển quân ở Mỹ, mà còn tận dụng mạng lưới liên lạc thông nhau giữa các viên chức chính phủ Nam Việt Nam cũ và sĩ quan cao cấp quân đội Nam Việt Nam cũ để thu hút những chí nguyện quân từ các trại tị nạn ở châu Á và Australia.
Cuối cùng, Minh cũng đã khoanh vùng được một khu đất trong rừng ở Đông Bắc Thái Lan để thiết lập một căn cứ bí mật cho chiến dịch. Tân binh của Mặt Trận sẽ đồn trú tại căn cứ, luyện tập và vạch định chiến lược. Khi thời cơ đến, họ sẽ tuồn quân vào Việt Nam và nhập vào một chiến dịch du kích chiến cổ điển, kết nối với các đảng phái chống cộng đang còn trong nước, rồi lan rộng các cuộc nổi dậy khắp từ thôn làng này qua thôn làng khác. Cuối cùng, chính quyền Hà Nội sẽ bị đánh đổ y như Sài Gòn khi xưa vậy.
Cũng giống như bất kỳ quân đội nào, các du kích quân đang rất cần một chuỗi những tiếp liệu cung ứng đáng tin cậy có thể cung cấp tất cả các nhu cầu thiết yếu phục vụ cho chiến trường cũng như hậu cứ. Vũ khí, đạn dược, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, quân phục và thiết bị truyền thông.

Trại huấn luyện của Mặt Trận ở Thái - nguồn ảnh do Đỗ Thông Minh cấp

Để chu cấp cho đội quân vũ trang này, Minh và các đồng sự đã lập nên một bộ phận chuyên vận động gây quỹ trên đất Mỹ. Họ bắt đầu tung các xứ bộ của Mặt Trận ra trên toàn quốc. Mỗi tháng, các đoàn viên cam kết đóng góp tiền quỹ vào cho tổ chức. Mặt Trận cũng bước đầu xuất bản một tờ báo có tên là Khang Chien, để loan tin về hoạt động kháng chiến nhằm thu hút nhiều nguồn đóng góp hơn nữa. Thậm chí họ còn cho mở một chuỗi các tiệm phở để chủ động nguồn thu.
Những cựu binh nhiệt huyết và dày dạn ào ào gia nhập Mặt Trận. Với những quân nhân Nam Việt Nam, chiến tranh không thể nào không hằn sâu nơi họ bao thương tích, nhưng cũng qua đó, nó gắn kết họ lại với nhau trong một tình chiến hữu chí thiết. Nhìn lại hiện tại nhiều cựu binh nay bỗng thấy mình như lênh đênh vô định ở Mỹ, phải mưu sinh vất vả với những công việc làm tầm thường, nên với họ, ý tưởng cùng được sống lại bên nhau trong tình chiến đấu cũ đã là một cảm hứng mãnh liệt.
Một nhà báo từng dự các đại hội do Mặt Trận tổ chức trong đầu những năm 1980’s đã tả lại đại hội như ngây ngất say sưa xa lìa khỏi thực tại, khiến ta cảm thấy đó như là một dạng tôn giáo vậy.

Trong một lần phỏng vấn mới đây, một trong những thành viên sáng lập của tổ chức, Đỗ Thông Minh, đã cung cấp bảng Niên Biểu tổ chức của Mặt Trận. Trên hết là ông Hoàng Cơ Minh, người điều hành hoạt động từ căn cứ của Mặt Trận ở Thái Lan và liên lạc với các sĩ quan thuộc cấp trên khắp thế giới qua các công điện khẩn đã được mã hóa. Phó soái của ông là một cựu binh anh dũng thời chiến tranh Việt Nam tên là Lê Hồng, phụ trách chỉ huy trại huấn luyện của Mặt Trận ở Thái Lan. Một người khác trông coi đài phát thanh của Mặt Trận, nơi phát đi lời kêu gọi nổi dậy kháng chiến vào lãnh thổ Việt Nam từ một căn cứ ở Thái.
Tại Mỹ, một hội đồng điều hành gồm khoảng 10 người chuyên lo việc gây quỹ và quảng bá hoạt động của Mặt Trận. Đứng đầu là một cựu đại tá trong quân đội miền Nam Việt Nam, hội đồng đã lập thêm nhiều chi nhánh / xứ bộ của Mặt Trận ở châu Âu và Canada, cũng như Úc và châu Á.

Nguyễn Xuân Nghĩa từng nắm quyền điều hành ở thượng tầng và đồng thời là phát ngôn nhân của Mặt Trận - nguồn ảnh do Frontline cấp

Để gây cảm hứng - và giữ sao cho nguồn tiền đóng góp thêm dồi dào – các nhánh tuyên truyền của Mặt Trận đã cho rải nhiều hình ảnh của Minh và binh sĩ của ông, trong vẻ nhọc nhằn chuẩn bị cho chiến trận từ căn cứ bí mật. Một tờ bìa gấp nhỏ có in ảnh của đội quân đã được huấn luyện căn bản trong tư thế quỳ, nòng súng hướng lên cao, những chiến binh thề "hiến trọn đời mình cho công cuộc giải phóng Việt Nam"

Ở Mỹ, những đoàn viên trung kiên của Mặt Trận đã bắt đầu vận bộ đồng phục áo sơ mi nâu và quần kaki; họ thường được gọi là "áo nâu" trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt, một dư âm lịch sử nay vẫn còn gợi lại nỗi hãi hùng. Họ thường xuyên hội họp và tổ chức nhiều cuộc biểu tình chống chế độ Hà Nội.
Các “áo nâu” cũng ủng hộ đội quân của Mặt Trận bằng cách gia tăng đóng góp tiền của. Họ thúc giục các chủ doanh nghiệp bán lẻ người Mỹ gốc Việt đóng góp tiền mặt cho Mặt Trận và đặt thùng quyên góp trong các cửa tiệm và nhà hàng. Một số chủ tiệm cảm thấy như kiểu Mặt Trận muốn tống tiền họ và phàn nàn với FBI.
Theo một bản ghi nhớ của FBI, các điều tra viên tại San Francisco có đơn cử vài vụ nhận tin báo là Mặt Trận đã dùng lối "tống tiền và các cách thế phi pháp khác để thu tiền". Một báo cáo của FBI ước tính rằng những nỗ lực quyên tiền mặt của Mặt Trận đã sinh ra con số lớn lên tới "vài triệu đô la."
Một số người Mỹ gốc Việt đã bắt đầu tự hỏi, tất cả số tiền đó nay đã đi đâu? Có chắc nó được dùng để chu cấp những chiến binh của Mặt Trận?
Và rồi họ đã nhận được một bài học rằng đó là câu hỏi mà họ đừng nên hỏi.

-------

Đó là vào khoảng 11:20 PM ngày 22 tháng 9 năm 1990, khi Lê Triết vừa cua xe vào lối xe chạy trong khuôn viên tư gia ông ở Baileys Crossroads, Virginia, bên ngoài Washington, D.C.
Triết, một trong những cây bút được biết tiếng nhiều nhất trong cộng đồng người Việt, cùng vợ về nhà sau một bữa tiệc tối.
Một loạt đạn từ cỡ nòng 38 xé tung cửa sổ chiếc xe. Trong tích tắc Triết và vợ, Đặng-Trần Thị Tuyết, đã chết.
Các nhà điều tra sau đó đưa ra giả thuyết rằng hai kẻ giết người trang bị súng lục tự động đã dõi theo hai vợ chồng cho đến khi họ về nhà, một căn nhà nhỏ khiêm tốn bình thường. Với các nhân viên FBI, đây có vẻ như một cú ra tay chuyên nghiệp.
Triết, phụ trách một chuyên mục cho một nguyệt san có nhiều độc giả là tờ Văn Nghệ Tiền Phong, thường viết với giọng văn uyên bác pha lẫn châm biếm. Chuyên mục của ông thường dấy lên những trao đổi về thơ văn, thường gây nên những trận bút chiến trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và thường tỏ thái độ khinh thị dành cho Mặt Trận. Dù giữ lập trường chống cộng triệt để, Triết vẫn nghi ngờ Mặt Trận và các tay đầu lĩnh. Ông luôn dẫn ra những chứng lý thuyết phục rằng tổ chức đã chỉ chăm chăm lo kiếm tiền gây quỹ hơn là thực sự nhắm đánh đổ chính quyền Hà Nội, Triết thường xuyên chỉ trích Mặt Trận trong các số báo.

tranh vẽ dựng lại cảnh vợ chồng Lê Triết bị ám sát - nguồn ảnh: ProPublica
Trong một số báo, ông thẳng thừng cáo buộc các đầu lĩnh Mặt Trận đã đẩy binh sĩ họ vào chốn hiểm nguy. "Rồi thiên hài kịch này sẽ kết thúc bằng một bi kịch" ông viết.
Hồ sơ FBI đã chứng tỏ được việc Mặt Trận sau đó đã cố ý bêu rếu thanh danh và cả hăm dọa Triết. Về phần nhà báo thì hồ sơ cũng cho thấy ông bắt đầu mang theo bên mình một khẩu súng lục cỡ nòng 22 và thay đổi lộ trình lái xe cho khác với thường lệ. Cũng dựa theo các hồ sơ lưu trữ của FBI và và các cuộc phỏng vấn mà chúng tôi thực hiện được thì trước khi bị ám sát không lâu Triết đã có cuộc gặp với các tay đầu lĩnh Mặt Trận tại một căn nhà ở Frederick, Maryland. Các đầu lĩnh Mặt Trận đã cố gắng thuyết phục ông thôi chỉ trích tổ chức trong các số báo. Ông từ chối.
Báo, tạp chí và các bản tin vắn đã trở nên những nhu cầu không thể thiếu được của cộng đồng người Việt tị nạn đang dần khẳng định mình. Đối với các nhà làm báo cũng như với độc giả, các ấn loát phẩm chẳng khác nào một nếm trải mới mẻ đầy hào hứng và thú vị khi sống trong một xứ sở dân chủ.
“Việt Nam chưa hề được ghi nhận là một đất nước có nền tự do báo chí”, Jeffrey Brody, Giáo sư về truyền thông tại Đại học California State University, Fullerton đã nói thế. Brody cũng là người phụ trách vùng Little Saigon cho Sở hộ tịch Orange County Register, nói rằng đối với các ký giả Việt đến Mỹ trong những năm 1970 và 1980, "đấy là một Miền Tây hoang dã của tự do, nơi không thiếu gì cơ hội để lên tiếng về bất cứ gì bạn muốn"
Có vài tay đầu nậu thì tham vọng sẽ làm trùm về truyền thông. Có người thì nhận thấy cơ hội thực thi trọng trách của họ đối với cộng đồng. Một số lớn dân nhập cư đang ráo riết học Anh văn, đẩy các nguồn tin tức bằng Việt ngữ vào chỗ bị uy hiếp yếu thế. Trong tình thế đó, những ấn loát phẩm đang vươn lên đã xuất hiện như một người dẫn đường đáng tin cậy đối với những ai đang hòa nhập dần vào một nền văn hóa mới lạ.

Đối với Mặt Trận, các phương tiện truyền thông của người Mỹ gốc Việt trở nên thật là thuận lợi. Nếu tổ chức muốn kéo quần chúng đến với các sự kiện do mình dựng lên và khuyến dụ họ đóng góp tiền của cho công cuộc kháng chiến thì báo chí Việt ngữ chính là thứ mà tổ chức cần để phát đi lời tuyên truyền và kêu gọi.
Nhưng các nhà báo cũng có thể là một mối đe dọa, và một trong số đó có Triết, người đã chỉ trích gay gắt chiến thuật nặng tay gây quỹ của Mặt Trận và nêu nghi vấn liệu số tiền quyên được có chắc là đã đến với những kháng chiến quân hay không. Báo chí cũng đòi hỏi một sự minh bạch với sổ sách kế toán về các khoản đóng góp đã thu được. Họ không tin lời tuyên bố của Minh rằng đã xây dựng được một đội quân 10.000 người là có thật và họ nói rõ với độc giả là trên thực tế, những con số đó có khả năng sẽ thấp hơn nhiều.

Nơi các hồ sơ của FBI đã được phân bố đến các chi nhánh của cục trên toàn quốc, còn đầy dẫy các báo cáo, tường trình những gì các nhà báo gặp phải khi chỉ trích Mặt Trận, đó là bị hăm dọa, cảnh cáo và hành hung. Có một cáo thị dọa giết một nhà báo, cùng với bốn nhà in vì đã cho đăng những bài viết. Một sổ đen gửi bằng đường thư tín đến cho các cơ sở truyền thông Việt ngữ xác định danh tánh năm nhà báo đã chỉ trích Mặt Trận sẽ bị giết. Chúng liệt những kẻ bị hăm dọa vào hạng "kẻ phản bội" và nói rằng họ sẽ bị xử tử. Hai trong số những người trong sổ đen ấy cuối cùng đã chết thật.

Theo một báo cáo của FBI, có một nhóm đoàn viên Mặt Trận mặc áo sơ mi nâu truyền thống đã 2 lần tấn công một chủ báo ở Orange County, California; những kẻ hành hung ông đã nổi giận vì một bài trên báo ông đã phát hành "ám chỉ Mặt Trận âm mưu lừa gạt cộng đồng người Việt".
Đoàn viên Mặt Trận còn leo thang hơn trong một chiến dịch quấy nhiễu chống lại nhân viên tờ Viet Press, một tờ báo ở Orange County, gây áp lực với các doanh nghiệp không được đăng quảng cáo nơi báo ấy cho đến khi tờ báo phải đóng cửa. "Tôi tin là tôi đã bị thiệt mất khoảng $ 84,000" chủ báo Nguyễn Tú A, nhớ lại.
Trong vụ ở Fresno, các tay súng đã bắn một nhà báo ngay vào mặt sau khi ông dám thách thức Mặt Trận trong một bài báo. Nhưng ông đã thoát chết.
Phạm Văn Tập (1) đã không may mắn như vậy. Tập là chủ tuần báo MAI, một tờ báo chủ yếu ở lĩnh vực giải trí đã cho đăng quảng cáo cho ba công ty có làm ăn với Việt Nam, chuyên chuyển tiền hoặc hàng hóa. Kẻ khủng bố đã nổi lửa đốt tòa soạn của Tập tọa lạc tại Garden Grove trong khi ông còn đang ngủ bên trong. Ông đã chết vì ngạt khói. Một cáo thị liền được gửi đến các báo của người Mỹ gốc Việt sau vụ sát hại. Cáo thị này nói Tập đã bị giết vì ông là kẻ tham lam đã theo về phe cộng sản khi nhận in các quảng cáo.
Dương Trọng Lâm, 27 tuổi, bị giết chết ở San Francisco bởi thiện cảm của Lâm với chế độ Hà Nội là không thể chấp nhận được. Lâm thì chẳng hề chỉ trích Mặt Trận công khai, ông chỉ chống chiến tranh Việt Nam và biểu lộ trên mặt báo quan điểm ủng hộ cộng sản của ông thôi, nhưng cũng chẳng phổ biến sâu rộng tới nhiều người Mỹ gốc Việt.
Cáo thị ban hành sau khi giết Lâm được ký thừa nhận bởi Tổ chức Việt Nam Diệt Cộng Hưng Quốc đảng, còn được viết tắt là VOECRN (Vietnamese Organization to Exterminate Communists and Restore the Nation). FBI đi đến giả thuyết rằng VOECRN – một danh tánh bỗng dưng mới nảy ra cho các hành vi bạo lực khác nữa – chẳng qua chỉ là một cái tên vỏ bọc chịu thay cho hành vi của chính Mặt Trận. Nếu làm thế cốt để che dấu vai trò thực của Mặt Trận trong hàng loạt những bất ổn ngày càng tăng thêm thì cũng không hẳn đã làm được.
"Xem ra các yếu tố ấy quyện chặt lại với nhau thể hiện trong những bản cáo thị" Katherine Tang-Wilcox, một cựu đặc vụ phụ tá chỉ huy cục điều tra FBI cho biết. "Có vụ chỉ dọa giết, có vụ thì tấn công, có vụ thì giết người thật. Những cáo thị, cốt để tăng thanh thế và hăm dọa sẽ còn làm tiếp"
Tang-Wilcox cho biết cuối cùng, các nhà điều tra ra tay thu thập các tường trình, báo cáo liên quan đến sự kiện cựu thành viên nào đó của Mặt Trận đã nói rằng, quả thực là tổ chức đã có lập ra một tiểu tổ ám sát dưới bí danh "K-9". Một bản báo cáo điều tra tóm tắt của FBI đề ngày 04 Tháng 11 năm 1991 chứa đầy những chỉ dấu liên quan đến K-9. Một bản nêu một cái tên được gán cho là đã chỉ huy K-9. Một bản khác liên hệ K-9 đến một vụ giết người cụ thể. Một bản khác nữa thì gọi K-9 là “tổ hành quyết” của Mặt Trận.
"K-9 được dựng nên như là một tiểu tổ ám sát của Mặt Trận" Tang-Wilcox nhớ lại.
Tuy giờ đây đã nghỉ hưu không còn làm ở cục điều tra nữa, Tang-Wilcox vẫn không chắc ai đã điều khiển các vụ khủng bố đó. Nhưng bà cũng bị thuyết phục rằng Mặt Trận và đội sát thủ của nó phải chịu trách nhiệm cho việc giết hại vợ chồng Triết. Chỉ có 1 trường hợp bà chắc chắn đó là nhóm đã ra tay sát hại nhà báo Nguyễn Đạm Phong ở Houston nhiều năm trước.

Tu Nguyen, con trai của nhà báo Nguyễn Đạm Phong, nói rằng, cha mình đã bị đe dọa nhiều lần nhiều tuần trước khi qua đời. (photo by Edmund D. Fountain, gởi riêng cho ProPublica)
Sau chuỗi ngày đảm nhiệm vai trò trợ lý cho một phòng nha, Đạm Phong trở về nhà và dồn hết tâm tư cho tờ báo, tự tay đánh máy chia cột phân trang lên khuôn. Dù tờ báo đã ngốn hết thời giờ và tiền bạc thế nhưng Đạm Phong yêu nó.

tờ báo có tên là Tự Do - screenshot by LTC

Tu Nguyen, người phụ trách phát hành tờ báo -có tên là Tu Do- và cũng là con trai ông [Đạm Phong], nói: "Mục đích là để nói được tiếng nói cho đồng bào". "Đó mới thực là mục tiêu chính của cha tôi. Ông chả làm tờ báo vì tiền. Chẳng có đồng tiền nào do tờ báo đem lại cả". Cha tôi, ông nói tiếp, ra công truy tìm sự thật bất kể hậu quả thế nào.
Sau bao công phu truy tầm, cuối cùng Đạm Phong khởi sự đăng loạt bài của ông vạch trần sự thật về Mặt Trận. Đạm Phong chả ưa cộng sản tí nào, nhưng ông cho rằng Minh là một kẻ lừa đảo, một tay bịp cam tâm đánh lừa người Việt. Vì vậy, qua mục bài bình luận chủ đề lật mặt mốc (muckraking article), ông công kích Mặt Trận – trong đó có bài liệt Minh và những người về bè với ông ta là "những tên vô lại".
Năm 1982, Mặt Trận làm một cú ra mắt thật to: Hãng tin CBS News đã đưa tin các kháng chiến quân của Minh với chính nghĩa của họ trong một phân đoạn phim nhiều kịch tính được phát sóng toàn quốc. Với cảnh quay lính của Mặt Trận hành quân qua núi rừng, phim còn lồng vào đoạn ghi âm lời tuyên bố của Mặt Trận cho biết quân đội của mình đã ẩn mình băng qua được phòng tuyến của kẻ thù và đang lập căn cứ sâu trong nội địa Việt Nam.
Đạm Phong bắt đầu khui ra các lỗ hổng trong câu chuyện, phát hiện ra rằng quân đội đã không hề đến được bất cứ nơi nào gọi là gần lãnh thổ Việt Nam. Một đầu đề trên trang nhất tờ Tự Do như một tiếng nổ lớn: “Sự Thật về việc Đề đốc Minh Trở về Việt Nam”. Đạm Phong đã bay tới thủ đô Vọng Các, nơi đây các tường trình của ông đã khơi dẫn tới nhiều phác giác khác gồm cả nơi chốn của căn cứ của Mặt Trận ở Thái Lan dù điều này Mặt Trận đã cố giấu kín.
Bằng nhiều thủ đoạn, Mặt Trận đã ra sức bắt Đạm Phong im miệng, theo Tu Nguyen, con trai ông. Họ đã cố đàm phán với ông bằng cách đút phong bì tiền mặt, nhưng ông từ chối. Sau đó, Tu nhớ lại, đã có một loạt không ngừng của cuộc gọi điện thoại "từ những người đe dọa sẽ giết ông nếu ông không ngừng đăng các bài viết về Mặt Trận" Cuối cùng, ông cũng có một cuộc gặp mặt với các tay đầu lĩnh Mặt Trận trong một nhà hàng ở trung tâm thành phố Houston.

Báo cáo của FBI về vụ giết Nguyễn Đạm Phong, cùng với những vụ khác - ảnh: ProPublica

Báo cáo của FBI có tài liệu dẫn chứng rõ về vụ giết Nguyễn Đạm Phong, cùng với những vụ khác nữa. Tu Nguyen nói, các đầu lĩnh Mặt Trận đã đưa cho cha mình một tối hậu thư: “Hoặc dừng những bài báo lại hoặc phải chết”.
Đạm Phong đã chết vài ngày sau đó, ông bị bắn trong khi vẫn còn mặc pyjama trên người và ngã gục trên lối đi. Tay sát thủ - hoặc nhiều hơn 1 – cũng không để lại vỏ đạn nào.

"Tôi nghĩ rằng, nhất là trường hợp Nguyễn Đạm Phong ở Houston, và cả với Lê Triết và vợ tại Fairfax, Virginia - riêng phần tôi thì tôi tin rằng Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam chịu trách nhiệm về những vụ giết người đó" Tang-Wilcox, cựu điều tra viên FBI nói.
Vụ giết Đạm Phong, bà nói thêm, "Chẳng có động cơ nào khác hơn những vấn đề mà ông đang phải mắc mứu với Mặt Trận, chẳng qua cũng là vì các bài viết trên báo thôi.
Và rồi người ta đã chọn cách giết người. Các vỏ đạn cũng đã được thu thập. Sát thủ có tay nghề và biết phải làm gì cũng như không để lại bất kỳ dấu vết nào. Lại còn để lại bản cáo thị nữa. "Đích thị đó là một vụ ám sát"

Có một người cho hay, ông biết những người phải chịu trách nhiệm vụ giết Đạm Phong là ai. Người này là một cựu sĩ quan quân đội Nam Việt Nam và từng là đoàn viên toàn thời của Mặt Trận. Làn da nâu bóng của ông đã bắt đầu nhăn nheo vì tuổi tác, mái tóc đen đã bắt đầu điểm những sợi bạc...

Vào tháng Tám, ông đã đồng ý để cho ProPublica và Frontline thực hiện một cuộc phỏng vấn tại nhà riêng, một ngôi nhà nhỏ gọn và xinh xắn. Ông nói ông chỉ chịu chuyện trò về các hoạt động của Mặt Trận nếu chúng tôi không nêu tên ông và gọi nơi ông ở hiện tại chỉ đơn giản là một thành phố ở mạn Nam.
Sau một cuộc trò chuyện dài bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh, chúng tôi đặt trước mặt ông một danh sách gồm 5 cái tên, đó là những nhà báo đã chết. Ông nheo mắt, nghiêng người về phía trước và đưa ngón út chỉ vào 2 cái tên đầu tiên: Dương Trọng Lâm và Nguyễn Đạm Phong.
"Chúng tôi đã giết họ" ông khẽ nói.
Thế còn những người khác?
"Tôi không biết chắc" ông trả lời. "Và tôi không thể nói gì trừ phi tôi hoàn toàn chắc chắn"
Ông không nói ai là người bóp cò cũng như không nói ai đã ra lệnh giết. Ông có vẻ trầm tĩnh chín chắn khi trả lời nhưng không hề biểu lộ chút hối hận nào. Ông cũng cho biết chưa có ai trong cơ quan công lực Hoa Kỳ tới phỏng vấn ông cả.

ProPublica và Frontline tìm được cả thảy 5 cựu thành viên Mặt Trận thừa nhận rằng một tổ ám sát có tên gọi là K-9 đã lãnh việc làm kinh tởm ấy cho tổ chức. Một trong số đó là ông Trần Văn Bé Tư.
Vào đầu năm 1980, Bé Tư là một phần tử chống cộng cực đoan: Ông bị kết án bảy năm tù vì tội mưu sát sau khi bắn [không chết] một người đàn ông tên là Trần Khánh Vân ở Westminster, California, vào năm 1986. Chuyện về Vân từng được tờ Los Angeles Times đơn cử như một chuyện điển hình về những vận động đối thoại với chính quyền cộng sản tại Việt Nam.
"Tôi bắn, ông ta đổ sụm xuống như một thân cây" Bé Tư nói. "Cộng sản là thứ bệnh hoạn, một lũ người bệnh hoạn"
Dù ông bảo đã ly khai với Mặt trận trước vụ nổ súng, Bé Tư vẫn kể lại với vẻ thiện cảm và tự hào về những ngày tháng hoạt động cho Mặt Trận, ông cũng nói tổ chức đã ra tay khiến kẻ thù khiếp sợ. Ông còn nói cư dân ở Orange County coi những người đoạt mạng những tên thân cộng như là những người hùng. Bé Tư cho biết ông có được dự tuyển vào đơn vị K-9, nhưng sau đã quyết định không tham gia, mặc dù ông rất mê việc đó.

Tran van Be Tu: "Tôi bắn, ông ta đổ sụm xuống như một thân cây" - nguồn ảnh: Frontline
"K-9, họ đã làm một công việc thật tuyệt, và thật chuyên nghiệp" ông ta nói. "Và họ không bao giờ bị bắt."
Bé Tư cho biết có một người bạn lâu năm của hai đầu lĩnh Mặt Trận - cũng là người bị FBI tình nghi chỉ huy các cuộc tấn công - Bé Tư bảo ông ấy nghĩ K-9 đã giết Đạm Phong, và có khả năng chịu trách nhiệm về các vụ giết Phạm Văn Tập và vợ chồng Lê Triết.
Chúng tôi cũng hỏi thẳng Bé Tư xem ông có biết tên của người đã giết Đạm Phong hay không. Ông ta cười bảo: “Nói như thể là nhân viên FBI”

Người Mỹ gốc Việt có một quá trình đáng nể trên chặng đường gian nan bỏ xứ ra đi nay đang dần lột xác để hòa nhập vào dòng chảy thực của xứ cờ hoa.
Thử làm một chuyến du hành vào Little Saigon bạn sẽ chẳng khó gì để nhận ra những căng thẳng lâu dài, một phức hợp từ những trang sử còn chưa tỏ rõ và những tranh chấp phe phái. Các đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh hay chính trị vẫn thường dùng chiêu chụp mũ “cộng sản”.
Những cựu thành viên Mặt Trận, cùng những người tự coi mình là nạn nhân của các thủ đoạn bạo lực của tổ chức, sống san sát nhau trong những góc riêng của người tị nạn ở California và Virginia, Houston và New Orleans. Dè dặt câm lặng vẫn là thứ ngôn ngữ lấn át. Ngay cả những năm sau này cũng y như thế, khi các thành viên Mặt Trận không còn dở giọng văng mạng đại ngôn như trước, còn về phía nạn nhân thì cứ ké né sợ bị gán cho là gây rối.

Đoàn Văn Toại vừa là một nhà văn vừa là nhà hoạt động chính trị, người chỉ trích Mặt Trận trên các ấn loát phẩm. Năm 1989, ông bị bắn ngay vào mặt, một nơi gần nhà ông ở Fresno, California. Toại vẫn không chắc ai là người đã cố giết mình – vì không bắt được tên nào cả - và ông cũng cẩn thận không ám chỉ đến bất cứ ai.
Nhưng Toại biết chắc chúng nhắm ông là vì những bài bình luận ông viết công khai trên mặt báo. Ông cũng nhận được thông điệp cảnh báo. Sau vụ mưu sát, Toại nghỉ viết và rút lui khỏi vũ đài.
Thập niên 1980, Tam Nguyên làm ký giả cho một tờ báo Việt ngữ tại San Jose tờ báo vốn không chấp nhận Mặt Trận. Tam Nguyen đã không để ngòi bút mình du vào những câu chuyện có thể gây tranh cãi - "Tôi không dám", anh nói – thế nhưng chỉ cần anh xuất hiện tại một sự kiện của Mặt Trận với máy ảnh trong tay thôi, anh cũng bị những người “cuồng” Mặt Trận vô cớ hành hung đến tóe máu và phải thối chuyển trong lòng.
Giờ đây Tam Nguyên là Nghị viên Hội đồng thành phố San Jose, đại diện cho quận 7. Thời kỳ khủng bố, anh nói, là "một ký ức đau thương mà tôi đã cố gắng chôn chặt xuống đáy lòng". Quanh San Jose – nơi các quán cà phê, trung tâm mua sắm hay chùa chiền - đôi khi anh vẫn gặp kẻ cựu thù bên Mặt Trận xưa kia, nay họ đã trở nên già cỗi, và có lẽ cả già dặn chín chắn hơn xưa. Vẫn còn thấy khó chịu nhiều, anh nói.

Nguyễn Xuân Nghĩa là một thành viên của Mặt Trận xưa kia và hôm nay ông cất lời nói tới cái thời ông sát cánh với tổ chức hàng chục năm trời, nói trong sự dè dặt phòng thủ pha lẫn chút gì tiếc hận.
Nghĩa dự phần vào Mặt Trận trong vai trò một nhà chiến lược then chốt và là đầu lĩnh về tuyên truyền, truyền thông của Mặt Trận trong suốt thập niên 1980’s, đã sánh bước với Mặt Trận ngót một thập niên ở cương vị thượng tầng của tổ chức. Tốt nghiệp kinh tế, và là một chuyên gia dày dạn về sử Á châu, ngày nay Nghĩa vẫn sống tại quận Cam, California. Ông là một tổng hợp của vừa là chuyên gia đa dạng, vừa trong vai một nhà bình luận thường xuyên có mặt trong các ngành truyên thông khác nữa của người Việt.

Nguyễn Đạm Phong với vợ và 8 con - nguồn ảnh by Nguyen Nguyen & Tu Nguyen

Trong loạt các cuộc phỏng vấn dành cho ProPublica và Frontline, Nghĩa kể về việc thuyên chuyển nhân sự ở Mặt Trận. Lần đầu, ông nhấn mạnh rằng tổ chức này chẳng có manh nha ý tưởng tìm cách tấn công các nhà báo hoặc những người khác ở Mỹ
Trong các cuộc trò chuyện về sau, khi phải đối mặt với bằng chứng bạo lực của Mặt Trận mà chúng tôi trưng ra, thì ông chịu nhận là có theo một lối khác. Trong một lần phỏng vấn có ghi hình, khi đề cập đến khả năng các thành viên Mặt Trận đứng sau vụ ám sát Đạm Phong cũng như phạm các tội ác khác nữa, thì Nghĩa nói điều đó là "hoàn toàn có thể". Có lần, ông thừa nhận việc hiện hữu một nhóm bạo lực trong tổ chức là có thật, và sau khi các nhà quay phim tắt máy quay, Nghĩa thú nhận thêm rằng ông đã có dự một cuộc họp của Mặt Trận trong đó các thành viên bàn kế hoạch ám sát một tay biên tập viên báo chí có tiếng tại Orange County. Nghĩa còn nói ông đã cố can ngăn các chiến hữu bỏ ý định giết người đó.
"Đó là một chương đen tối trong đời tôi," ông nói.

Tại Houston, vợ con Đạm Phong không muốn gì hơn là phải làm sáng tỏ cái chết của chồng, cha, ông của họ. Sau vụ sát nhân, gia đình ông đã không có tiền để chuyển đến ở một nơi mới, một nhà mới. Vì vậy, trong nhiều năm qua vợ và phần lớn con cái ông vẫn tiếp tục sống tại nơi Đạm Phong đã bị giết khi xưa.

Với Nguyễn Thanh Tú, vết tích về cái chết của cha mình đã bị nhạt nhòa theo thời gian, nhưng anh thì không lạ gì hết. Tú biết về các cuộc gọi điện thoại đe dọa. Anh biết cha anh đã mua một khẩu súng để tự vệ và nuôi một con chó Đức để giữ nhà.
"Người ta đã hứa sẽ đưa vụ giết người ra ánh sáng" Tú nhớ lại.

Tú, người đã từng giúp cha giao báo bằng chiếc xe tải của gia đình, giờ đây là một kỹ sư điện toán. Anh sống trong một khu thượng lưu với phố xá rợp bóng cây yên tĩnh.
Cứ vài tuần anh lại đưa hai con đến nghĩa trang trong vùng phụ cận Pearland để viếng mộ Đạm Phong.
Có khi anh ngồi xổm xuống, nhìn chằm chằm vào đất sâu và thì thầm nói với cha mình. Anh nói chắc nịch mà không cần màng tới công lý: "Với chúng tôi, chúng tôi chỉ muốn một lời giải đáp". Anh nói thêm: "Tất cả chỉ có thế"


Phạm văn Tập tức Hoài Điệp Tử giữa, Dương Trữ La (Tâm Đạm) trái, và Trương đạm Thủy - ảnh chụp trước 1975 tại miền Nam Việt Nam
(1) Chú thích của LTC: Phạm Văn Tập tức Nhà văn Hoài Điệp Tử sinh năm 1941 (Tân Tỵ) tại Bạc Liêu, đồng sáng lập nhà xuất bản Sông Hậu (trước 1975 tại miền Nam Việt Nam)

[hết phần 2 (Part I)]


by Adam Clay Thompson, ProPublica, November 3, 2015 - Lê Tùng Châu dịch sang Việt ngữ




Văn bản nguyên văn:

Part I:
The Front


His name was Hoang Co Minh. He had a mess of thinning, coal-black hair and a caterpillar mustache. It was 1983, and Minh had come to a packed convention center in Washington, D.C., to make an announcement: He intended to reconquer Vietnam.
Minh, a former officer in the South Vietnamese Navy, told the assembled crowd that he’d built a force that would topple the Hanoi government and liberate his homeland from the totalitarian rule of the Communists.
The crowd — thousands of Vietnamese refugees who’d fled the country after Saigon fell in 1975 — erupted in celebration, and in some cases, tears of joy. Clad in black, a long plaid scarf draped around his neck, Minh smiled broadly and let the audience’s ecstatic reaction wash over him. Video of the event shows Minh thrusting both hands into the air and waving like a head of state.
Minh had started his guerilla army a few years earlier. It was called the National United Front for the Liberation of Vietnam. The group had established a base in the wilds of Southeast Asia — a secret location within striking distance of Vietnam — and built a network of chapters across the U.S that raised money for the coming invasion.
Those U.S. chapters, it seems, had already opened what amounted to a second front, this one in America: Front members used violence to silence Vietnamese Americans who dared question the group’s politics or aims. Calling for normalized relations with the Communist victors back home was enough to merit a beating or, in some cases, a death sentence.
FBI agents eventually opened a domestic terrorism investigation into the Front’s activities. Thousands of pages of newly declassified FBI records obtained by ProPublica and Frontline show that the agents came to suspect that Minh’s group had orchestrated the killing of Vietnamese-American journalists, as well as a wide variety of fire-bombings, beatings and death threats.
In a memo that has never before been made public, an FBI investigator captured it simply: The Front, the agent wrote, had “undertaken a campaign to silence all opposition to it.”
The scope of the suspected terrorism was extensive. Journalists were slain in Texas, California and Virginia. A string of arsons stretched from Montreal to Orange County, California. Death threats were issued — to individuals, families and businesses across the country. And investigators believed the Front also mailed out communiqués claiming responsibility for the crimes.
Still, some 30 years later, the FBI has arrested no one for the violence or terrorism, much less charged and convicted them. Again and again, local police departments opened investigations that ended with no resolution. The FBI quietly closed its inquiry in the late 1990s, making it one of the most significant unsolved domestic terror cases in the country.
To reconstruct this chapter of history, largely hidden from the majority of Americans, ProPublica and Frontline acquired and scrutinized the FBI’s case files, as well as the records of local law enforcement agencies in Houston, San Francisco and the suburbs of Washington, D.C. We tracked down former police detectives, federal agents and prosecutors, and a number of people who had emerged as suspects. We also interviewed former government and military officials from the U.S., Vietnam and Thailand.
As well, we found and spoke with more than two dozen former members of the Front. We tracked down a number of former Front soldiers and traveled to Thailand to meet former Laotian guerillas who had once fought alongside them.
Finally, we spent hours with the families of the dead, and with people who had been shot or beaten. Some of the victims had never spoken publicly — either because they remained afraid or because they had become disillusioned with American law enforcement.
Our investigation lays bare the failure of the authorities to curb the Front’s violence and suggests that there are promising leads to pursue should the FBI or others decide to reopen the case. The new information includes accounts from former Front members who had never spoken to law enforcement, one of whom admitted that the Front was responsible for the killing of two of the journalists. Records and interviews show that Minh, as a means of disciplining his ragtag army overseas, ordered the killing of his own recruits, possibly as many as 10. The dead may have included Vietnamese-American citizens of the U.S., giving the FBI authority to investigate the crimes.
ProPublica and Frontline invited the current leadership of the FBI to discuss the bureau’s investigation of the Front. James Comey, the bureau’s director, would not be interviewed, and neither would the bureau’s specialists in domestic terrorism. The FBI also would not answer a series of detailed questions about the actions taken, and not taken, by the bureau during the many years of its investigation. Instead, it issued a statement:
“In the early 1980s, the FBI launched a series of investigations into the alleged politically motivated attacks in Vietnamese-American communities. While initially worked as separate cases across multiple field offices, the investigations were eventually consolidated under a major case designation codenamed ‘VOECRN’ at the direction of then-Director Louis Freeh. These cases were led by experienced FBI professionals who collected evidence and conducted numerous interviews while working closely with Department of Justice attorneys to identify those responsible for the crimes and seek justice for the victims. Despite those efforts, after 15 years of investigation, DOJ and FBI officials concluded that thus far, there is insufficient evidence to pursue prosecution.”

Spokespeople for the other government agencies with knowledge of the Front’s existence would not comment.
Minh ultimately mounted three failed incursions into Vietnam and died in 1987 during one of them. The Front, after a suspected decade of terror stretching from 1980 to 1991, suffered its own divisions and diminished prestige. Some of its onetime leaders have died; others live sprinkled across the country, retired from careers as doctors, restaurant owners or county workers.
Among the former Front members interviewed by ProPublica and Frontline, some insisted the group never engaged in any kind of violent activity in the U.S.
“Never. Never,” said Pham To Tu, a Houston resident who said he joined the organization in its early days. The group’s enemies, he added, “spread rumors about us.”
Every now and again, the Front’s former leaders turn out for memorial services or reunions or rallies that still call for the overthrow of the regime in Hanoi. They mingle with men in freshly pressed military uniforms. The air at the events is one of pride and enduring anger, bitterness and defiance.
Trang Q. Nguyen, a co-founder of Little Saigon TV and Radio in Orange County, California, said the Front’s efforts to intimidate journalists were well known in the Vietnamese-American media. And she is clear about why she thinks the group was able to elude the authorities: “People were scared.”
Like many Vietnamese who fled to the U.S. in the aftermath of the war, Hoang Co Minh experienced a precipitous drop in status when he arrived in this country.
He was an educated man, schooled at Saigon University’s law school and the South Vietnamese naval academy, and, later, in the 1960s, at the Naval Postgraduate School in Monterey, California. During the war, he commanded a coastal minesweeper, a 370-ton vessel with a crew of nearly 40 sailors. He held the rank of rear admiral in the South Vietnamese Navy.
Richard Armitage, a former U.S. Navy officer who worked closely with the South Vietnamese Navy before rising to a senior Pentagon position in the 1980s, knew Minh well and called him a “noted combat soldier.”
But by 1975, Minh no longer had a country, or a Navy to help direct. He set off for America on the day Saigon fell to the North Vietnamese. By the time he reached the U.S., immigration records show, he had $200 stashed in a Korean bank account, a small chunk of gold, and a couple of cheap rings. He was effectively destitute.
Along with Armitage, Minh had some influential friends: James Kelly, a retired U.S. Navy officer who served as a senior director on the National Security Council during the administrations of Ronald Reagan and George H.W. Bush, invited Minh’s family to live with him in the Virginia suburbs outside of Washington. But Minh’s new life in America nonetheless started humbly. He did yard work for suburban homeowners and later began hiring himself out as a house painter.
Moving to a foreign land is rarely easy. But the Vietnamese who came to America by the hundreds of thousands during the 1970s weren’t the typical economic migrants seeking better jobs and living conditions. They were refugees of a brutal war that had killed an estimated 3 million people. They had been forced to choose between exile or life under the harsh rule of the Communists.

The ensuing exodus was Biblical in scale, set on overloaded boats and in an archipelago of miserable refugee camps, all stuffed with scared people.
Many who stayed in Vietnam wound up dead or in Communist re-education camps where food was scarce and physical abuse abundant. “The Communists had lists of people who had cooperated with the Americans. Those people were called traitors,” recalled a South Vietnamese infantryman in “Tears Before the Rain,” an oral history. They “were shot right away, right there in the street,” he said. “The Communists had no mercy.”
Each wave of refugees brought with it disturbing tales of conditions in Southern Vietnam as the Hanoi government remade the country.
By the 1980s, there were some 400,000 Vietnamese living in the U.S., clustering in places like San Francisco, San Jose, Houston, New Orleans, Northern Virginia and Orange County, California. Traumatized, these new communities, often called Little Saigons, proved remarkably resilient, and in time, even wonderfully vibrant. But in the earliest years, they could be insular: handicapped by language barriers, heartsick for their homeland, hungry for vengeance.
Minh recognized the hunger, shared it and set about developing a plan for satisfying it.
After abandoning his house painting business in Virginia, Minh by 1981 had moved to Fresno, California. On immigration paperwork, he said he’d taken up a new job working for a refugee relief organization. Whether he ever did join such an effort, Minh had certainly spent years mixing in circles of fellow former South Vietnamese military officers and others nursing the desire to take up the fight again back in Vietnam. And in those circles, Minh appears to have regained a degree of his former stature.
“I had a very deep respect for him,” said Nguyen Xuan Nghia, a former senior Front official. Another former member called Minh “clever” and “brave.”
And so when a loose collection of men eager to return to their homeland banded together to form the Front, Minh became their leader. He cultivated a small, devoted following, and within two years he was ready to take his message more broadly to the Vietnamese-American community.
“We resolve to rise up to topple the Viet Cong oligarchy from power,” said one early Front propaganda piece. The Front’s aim was to create a “humane, free and just democracy.”
To do that, interviews and FBI files show, the Front developed a ruthless ethical calculus, believing its men were justified in taking nearly any action to advance their struggle.
Minh had a grand vision for the army he wanted to build. The Front would not only recruit in the U.S., but also use its network of contacts among former South Vietnamese government and military officials to attract volunteer soldiers from the ranks of refugees in Asia and Australia.
In time, Minh secured a tract of land in the forests of Northeast Thailand to establish a secret base of operations. The Front’s recruits would live at the base, drilling and strategizing. When the moment was right, they would slip into Vietnam and mount a classic guerrilla campaign, linking up with anti-Communist partisans within the country, spreading revolt from village to village. Eventually, the Hanoi government would collapse just as Saigon had.
Like any army, the rebels needed a reliable supply chain that could deliver all the necessities of combat to the base. Weapons. Ammunition. Food. Medicine. Uniforms. Communications gear.

To keep the warriors equipped, Minh and his colleagues created a sophisticated fundraising apparatus in the U.S. It started with Front chapters across the country. Chapter members pledged money to the group, often on a monthly basis. The Front began publishing a magazine called Khang Chien, or Resistance, to spread news of their insurgency and bring in more contributions. They even opened a chain of pho noodle houses to generate revenue.
Combat-hardened veterans flocked to the Front. For South Vietnamese soldiers and sailors, the war had certainly been harrowing, but it also had provided a profound sense of purpose and camaraderie. Now many of these veterans found themselves adrift in America, toiling at menial jobs in an alien land. For them, the idea of reviving the fight held deep emotional appeal.

A journalist who attended some of the Front’s rallies in the early 1980s described them as “surreal” events with an ecstatic, near-religious feel.
One of the group’s founders, Do Thong Minh, helped sketch out the Front’s organizational chart in a recent interview. At the top was Hoang Co Minh, who ran the operation from the Front’s encampment in Thailand and communicated with his lieutenants around the world via courier and coded messages. His deputy, a South Vietnamese war hero named Le Hong, also helped direct the Front’s trainees in Thailand. Another man oversaw the Front’s radio operations, which beamed insurrectionist messages into Vietnam from a transmitter in the Thai base.
In the U.S., an executive committee of roughly 10 people handled fundraising and publicity. Led by an ex-colonel from the South Vietnamese army, the committee established Front chapters in Europe and Canada, as well as Australia and Asia.

To build excitement — and keep the money coming in — the Front’s propaganda arm distributed photos of Minh and his soldiers, clad in fatigues, preparing for war at the secret base. One pamphlet included a picture of troops who had just finished basic training. They were kneeling, their rifles held aloft. The men pledged “to dedicate their entire lives to the liberation of Vietnam.”
In the U.S., Front loyalists began dressing in a uniform of chocolate-colored, button-down shirts and khaki pants; they became known as “brown shirts” within the Vietnamese-American communities, a historical echo that some found frightening. They held regular chapter meetings and staged protests against the Hanoi regime.
The brown shirts also supported the troops by raising money. They prodded owners of Vietnamese-American retail businesses to make cash contributions to the Front and to place donation cans for the group in their stores and restaurants. Some shop owners felt that the Front was shaking them down and complained to the FBI.
Agents in San Francisco, for example, received information that the Front used “extortion and other illegal means in the collection and solicitation of money,” according to an FBI memo. Another FBI report estimated that the Front’s cash-generating efforts had raised “several million dollars.”
Some Vietnamese Americans began to wonder where all that money was going. Was it really being used to the supply the soldiers?
That, they learned, was a question they shouldn’t ask.
It was about 11:20 p.m. on Sept. 22, 1990, when Le Triet pulled his car into the driveway of his house in Baileys Crossroads, Virginia, outside Washington, D.C. Triet, one of the best-known writers in the Vietnamese diaspora, was returning home from a dinner party with his wife.
A spray of .380 caliber bullets shattered their car window. Within moments Triet and his wife, Dang-Tran Thi Tuyet, were dead.
Investigators later theorized that two killers armed with automatic pistols followed the couple to their modest one-story home. To FBI agents, it looked like a professional hit.
Triet, a columnist for Van Nghe Tien Phong, a popular monthly magazine, had mixed erudition with an acerbic tone. His columns discussed poetry and literature, controversies within the Vietnamese-American community, and, often, his disdain for the Front. While Triet was staunchly anti-Communist, he was skeptical of the Front and its leadership. Convinced that the organization was more concerned with fundraising than actually overthrowing the Hanoi government, Triet frequently criticized the Front in print.

In one issue he bluntly accused Front leaders of endangering their own soldiers. “The comedy will end with a tragedy,” he wrote.
FBI documents make clear that the Front had been offended, and had threatened Triet. The writer, records show, began carrying a .22-caliber revolver and varying his driving routes. Shortly before Triet was killed, he met with Front leaders at a home in Frederick, Maryland, according to FBI records and interviews. The Front leaders tried to persuade him to quit criticizing the organization in print. He refused.
Newspapers, magazines and newsletters had become vital outlets for the emerging Vietnamese refugee community. For publishers and readers alike, the publications amounted to an initial, thrilling taste of life in a democracy.
“Vietnam never had a history of a free press,” said Jeffrey Brody, a communications professor at California State University, Fullerton. Brody, who covered Little Saigon for the Orange County Register, said that for Vietnamese reporters arriving in the U.S. during the 1970s and 1980s, “it was a Wild West of freedom, of opportunity to say what you want.”
Some entrepreneurs hoped to become media moguls. Others saw their mission in altruistic terms. A large chunk of the immigrant populace was still learning English, desperate for Vietnamese-language news sources. These emerging publications came to serve as a crucial guide for those learning to navigate a new culture.
For the Front, the Vietnamese-American media could be quite useful. If the organization wanted to draw people to its events and persuade them to bankroll its guerrilla war, it needed the Vietnamese-language press to spread its message and publish its appeals.
But journalists could also be a threat, and several of them, Triet included, slammed the group for its heavy-handed fundraising tactics and questioned whether the money was really going to the soldiers. They demanded a thorough accounting of the donations. They didn’t believe Minh’s claims that he had built a 10,000-man army and they told their readers the real number was likely far lower.
The FBI’s files, typed up in field offices around the country, are rich with accounts of what happened when journalists criticized the Front: threats, intimidation and violence. One communiqué threatened a writer with death, along with four newspaper publishers who ran his stories. A hit list mailed out to the Vietnamese-language media identified five journalists who had criticized the Front. It labeled them “traitors” and said they would be executed. Two of the people on the list ended up dead.

A group of Front members dressed in their customary brown shirts assaulted an Orange County, California, newspaper owner twice; his attackers were angered by an article he’d published “regarding the Front’s scheme to defraud the Vietnamese community,” according to an FBI report.
Front members mounted a harassment campaign against the staff of Viet Press, another Orange County newspaper, pressuring businesses to pull their advertisements until the paper shut down. “I lost, I believe, about $84,000,” the publisher, Nguyen Tu A, recalled.
In Fresno, gunmen shot a writer in the face after he dared take on the Front in a newspaper essay. He survived.
Pham Van Tap wasn’t as fortunate. Tap ran MAI, an entertainment-focused magazine that carried ads for three companies engaged in commerce with Vietnam, wiring money or shipping packages to the country. An arsonist torched Tap’s office in Garden Grove while he slept in the building. He died of smoke inhalation. Another communiqué, sent to the Vietnamese-American press, followed the killing. This one said Tap had been killed because he was a greedy character who supported the Communists by publishing the ads.
Duong Trong Lam, 27, was killed in San Francisco for being unacceptably sympathetic to the Hanoi regime. While Lam didn’t openly criticize the Front, he had opposed the Vietnam War and his pro-Communist views, deeply unpopular with many Vietnamese Americans, were reflected in his newspaper.
The communique issued after Lam’s murder was signed by the Vietnamese Organization to Exterminate Communists and Restore the Nation, or VOECRN. The FBI came to theorize that VOECRN — the name would pop up in other acts of violence — was simply a kind of cover name for the Front.
If the effort was meant to disguise the Front’s role in the growing catalogue of mayhem, it didn’t work.
“What appeared to link them all together were the communiqués,” said Katherine Tang-Wilcox, a former agent who helped lead the FBI probe. “There were death threats, there were attacks, the murders. These communiqués, they took credit for them, or they threatened they were going to do it.”
Tang-Wilcox said investigators eventually began to collect accounts from former members of the Front who said the group had actually created a death squad and code-named it “K-9.” An FBI investigative summary dated Nov. 4, 1991 is laden with references to K-9. One report names K-9’s alleged leader. Another connects K-9 to specific murders. Yet another calls K-9 the Front’s “enforcement branch.”
“K-9 was established as the assassination arm of the Front,” Tang-Wilcox recalled.
Now retired from the bureau, Tang-Wilcox remains unsure about who ordered the hits. But she is convinced that the Front and its death squad were responsible for the killing of Triet and his wife. And she is just as certain that the group killed Houston publisher Nguyễn Đạm Phong years before.
When Đạm Phong started his newspaper in 1981, it was difficult to find a typewriter with the accent marks used in the Vietnamese script. So Đạm Phong painstakingly went through the copy line by line, writing in the accents by hand with a pen. He was, by any measure, a media pioneer, one of the first Vietnamese immigrants to establish a newspaper in the U.S.

After spending his days working as an assistant in a dentist’s office, Đạm Phong came home and poured himself into the paper, tapping at the typewriter, pasting up columns of copy on a light table. The enterprise devoured his time and gobbled up his money. Still, Đạm Phong loved it.
“The objective was to be the voice for the people,” said his son, Tu Nguyen, who helped distribute the paper, named Tu Do. “Really that was his goal. He was not in it to make money. There was no money to be made.”
His father, he said, was driven to hunt for the truth, regardless of the consequences.
Đạm Phong eventually began to publish his version of the truth about the Front. Đạm Phong had no love for Communism, but he thought Minh was a fraud, a charlatan who was misleading the Vietnamese people. So he attacked the Front in editorials — in one he labeled Minh and his followers “clowns” — and in muckraking articles.
In 1982, the Front pulled off a major publicity coup: CBS News described Minh’s guerrillas and their cause in a dramatic segment that aired nationally. Featuring footage of Front soldiers trudging through the jungle, the story relayed the Front’s claim that its troops had gone behind enemy lines and set up camp in the Vietnamese backcountry.
Đạm Phong began poking holes in the story, discovering that the troops hadn’t gotten anywhere near Vietnam. One headline in Tu Do shouted: The Truth About Admiral’s Minh Return to Vietnam. Đạm Phong flew to Bangkok, where his reporting led to more revelations, including the location of the Front’s base in Thailand, which the group had tried to keep secret.
The Front tried to silence Đạm Phong using an array of different tactics, according to his son, Tu. They tried to bribe him with envelopes of cash, but he refused. Then, Tu recalled, there was an incessant series of phone calls “from people threatening to kill him if he doesn’t stop publishing the articles about the Front.” Finally, there was a meeting with Front leaders in a restaurant in downtown Houston.

The leaders, Tu said, gave his father an ultimatum: Stop the stories or perish.
Days later, Đạm Phong was dead, shot in his pajamas and left in his driveway. The assassin — or assassins — left behind no shell casings.
“I do think that, particularly with Nguyễn Đạm Phong in Houston, and Le Triet and his wife, unfortunately, in Fairfax, Virginia — there is a distinct belief on my part that the National Front for the Liberation of Vietnam was responsible for those murders,” said Tang-Wilcox, the former FBI agent.
Of Đạm Phong’s murder, she said, “There were no other motives developed, other than the problems that he was having with the Front, because of the articles he was publishing..
And then the way the murder was conducted. The casings were picked up and collected. That was someone who was highly trained, that knew what they were doing, and wasn’t going to leave any evidence that would be remotely helpful behind. And the communiqué was left with him.
“It was an assassination.”
One man says he knows who was responsible for Đạm Phong’s death. He is a former South Vietnamese officer and a onetime member of the Front. His light-brown skin is lined by age, his dark hair streaked with white.
In August, he agreed to an interview with ProPublica and Frontline at his tidy one-story home. He said he would discuss the activities of the Front only if we did not name him and referred to his current residence only as a Southern town.
After a long conversation in Vietnamese and English, we placed a list of five names before him, those of the dead journalists. He squinted, leaned forward and pointed a thin finger at the first two names: Duong Trong Lam and Nguyễn Đạm Phong.
“We killed them,” he said quietly.
What about the others?
“I’m not sure,” he replied. “And I don’t want to say anything unless I’m completely sure.”
The man would not say who pulled the trigger or who gave the orders. His demeanor was sober, but he did not evince any obvious remorse. He said he had never been interviewed by anyone in American law enforcement.
In all, ProPublica and Frontline found five former Front members who acknowledged that a death squad known as K-9 had done the group’s dirtiest work. One was Tran Van Be Tu.
In the early 1980s, Be Tu was a hardcore anti-Communist: He was sentenced to seven years in prison for attempted murder after shooting a man named Tran Khanh Van in Westminster, California, in 1986. Van had been quoted in a Los Angeles Times feature story advocating for dialogue with the Communist government in Vietnam.
“I shoot, he fell like a tree,” Be Tu said. “Communists are like sick, sick people.”
Saying he had broken with the Front before the shooting, Be Tu nonetheless spoke with familiarity and pride about his years with the Front, and about the fear the group struck in its enemies. He said people in Orange County regarded those who killed supposed Communists as heroes. Be Tu said he’d been recruited to join the K-9 unit, but chose not to, though he admired its work.

“K-9, they do a good job, they professional,” he said. “And they never get caught.”
A longtime friend of two of the Front’s top commanders — men the FBI suspected of directing attacks — Be Tu said he thought K-9 had murdered Đạm Phong, and was likely responsible for the slayings of Pham Van Tap and Le Triet and his wife.
We asked him directly if he knew the name of the person who had killed Đạm Phong.
He laughed.
“Sound like you FBI,” he said.
Vietnamese Americans have in many respects lived out the classic immigrant trajectory — gradually shedding their identity as exiles and assimilating into the American mainstream.
But venture into any of America’s Little Saigon neighborhoods, and it’s not hard to detect the enduring tensions, an amalgam of secret histories and disputed allegiances. The slur of “Communist” is still sometimes hurled at business competitors or rival politicians.
Former members of the Front, and those who consider themselves the victims of the group’s violent tactics, live alongside each other in these immigrant corners of California and Virginia, Houston and New Orleans. Silence remains the dominant language. Even all these years later, Front members are less than eager to revisit explosive allegations, and victims are often scared to be seen as making trouble.
Doan Van Toai was a writer and activist who criticized the Front in print. In 1989, he was shot in the face near his home in Fresno, California. Toai still doesn’t know for sure who tried to kill him — there have been no arrests — and is careful not to implicate anybody.
But Toai is sure he was targeted because of his writings and public statements. And he got the message. After the shooting, Toai stopped writing and withdrew from the public eye.
In the 1980s, Tam Nguyen worked as a journalist for a Vietnamese-language newspaper in San Jose that challenged the Front. Tam Nguyen didn’t write the contentious stories — “I wouldn’t dare” — but when he showed up at a Front event with his camera in hand, Front loyalists assaulted him, leaving him bloody and shaken.
Today Tam Nguyen is a San Jose City Council member, representing the city’s 7th District. The era of terror, he said, is “a painful memory I tried to bury deep down.” Around San Jose –at the coffee shops and shopping malls and Buddhist temples — he sometimes encounters his old foes from the Front, much older, perhaps mellowed. It can be deeply uncomfortable, he said.
Nguyen Xuan Nghia was a member of the Front and today he speaks of his decade with the group with a blend of defensiveness and regret.
Nghia served as a key strategist and communications chief for the Front during the 1980s, and spent roughly a decade in the group’s top echelon. Trained as an economist, and a longtime student of Asian history, Nghia today lives in Orange County, California. He is, of all things, a prolific columnist, appearing regularly as a commentator in other Vietnamese media.

In a series of interviews with ProPublica and Frontline, Nghia offered shifting takes on the Front. At first, he insisted that the organization wasn’t connected in any way to attacks on journalists or others in the U.S.
In later conversations, when confronted with evidence of the Front’s violence, he adopted a different line. In a videotaped interview, Nghia said it was “quite possible” that Front members were behind the assassination of Đạm Phong and could have committed other crimes. There was, he acknowledged, a violent faction within the organization, and when the videographers turned off the cameras, Nghia admitted he had participated in a Front meeting during which members discussed a plan to assassinate a well-known newspaper editor in Orange County. Nghia said he dissuaded his colleagues from killing the man.
“It was a dark chapter in my life,” he said.
In Houston, Đạm Phong’s family wants nothing more than for the darkness around his death to lift. After the killing, the family didn’t have the money to move to a new home. So for years his wife and many of his 10 children continued to live at the address where Đạm Phong was slain.
For Tu, his father’s death was devastating, but not really surprising. Tu knew about the threatening phone calls. He knew his father had bought a handgun for protection and kept a German shepherd to guard the house.
“They told him they were going to take him out,” Tu recalled.
Tu, who once helped his father deliver the newspaper in the family sedan, is now a computer engineer. He lives in an upscale neighborhood of tranquil tree-lined streets.
On some weekends he takes his two children to the cemetery in nearby Pearland, to the grave of Đạm Phong.
Sometimes he squats down, stares at the ground and speaks, in a near whisper, to his father. He talks of gaining certainty, if not full justice.
“For us, we just want an answer,” he said. “That’s it.”


(continue)


$pageOut
$pageIn

Phần II


Việc Điều tra án mạng bế tắc gây nản lòng (A Failed Case Grows Colder)


Chỉ 24 giờ sau khi vụ sát hại Dương Trọng Lâm -vào ngày July 21, 1981, một thám tử sở cảnh sát San Francisco đã ghi ra một bản kê ngắn những động cơ nào khiến cho một nhà báo trẻ mới 27 tuổi lại bị bắn chết bên ngoài tòa chung cư mà anh đang cư ngụ. Các phỏng đoán thường tình của thám tử là hoặc vì tình hoặc vì tiền. Nhưng cũng theo báo cáo của cảnh sát lại cho thấy các thám tử đã có lý do để xem xét một khả năng khác: chính trị. Lâm và tờ báo đang lưu hành của anh bị xem là thiên cộng, và Lâm cũng đã nhận được nhiều lời đe nẹt, cảnh cáo rằng anh là một kẻ phản bội, từ cộng đồng người Mỹ gốc Việt.

Những ngày tiếp sau vụ giết Lâm, bỗng ló ra một tuyên bố công khai thừa nhận - như một dạng cáo thị được gửi đến hãng thông tấn AP (Associated Press) nói rằng Lâm bị thanh toán bởi vì anh ta ủng hộ cộng sản. Vài tuần sau, bạn bè Lâm chính thức soạn thảo một văn bản gởi tới sở cảnh sát địa phương và cơ quan FBI trong đó có trích dẫn cái cáo thị kia, để bày tỏ nỗi quan ngại sâu xa rằng vụ giết Lâm có thể là một phần của một hình thái sẽ mở rộng của hành vi bạo lực mang động cơ chính trị.

Tuy nhiên, nhà chức trách, các báo cáo cũng như các phỏng vấn khảo sát cho thấy ý tưởng ấy bị loại bỏ. Dưới áp lực của bạn bè Lâm, các công tố viên liên bang đã phải nêu nghi vấn với FBI rằng liệu vụ hạ sát Lâm có thể nào là "một hành vi xem như là khủng bố" không? FBI vẫn giữ lập trường của họ là không phải chính trị.

Cuối cùng, cơ quan điều tra phải mất nhiều năm truy tìm tội phạm trong loạt tội phạm tội ác tương tự đã xảy diễn trong cái góc nhỏ quần thể cư dân người Mỹ gốc Việt trên đất Mỹ – việc điều tra được tiến hành như một chuyên án, rải ra khắp các chi nhánh của cục FBI trên toàn lãnh thổ - rồi mới nhận ra rằng họ đã lầm: Không những Lâm bị giết vì đã bày tỏ quan điểm cá nhân, mà người ta còn tin rằng, Lâm là một trong những nhà báo người Mỹ gốc Việt bị một tổ chức -đang mưu cầu quang phục lại Việt Nam- sát hại, tổ chức đó cũng hạ quyết tâm tiêu diệt bất cứ ai dám thách thức họ. Đến lúc đó FBI mới sinh nghi tổ chức thường được gọi là Mặt Trận, phải chịu trách nhiệm các vụ giết người ở California, Texas và Virginia, cũng như một lô một lốc các vụ đốt phá, đánh đập, hành hung và hăm dọa trên toàn nước Mỹ.

Năm 1995, Cục gộp chừng hơn hai chục vụ án liên quan lại vào làm một "chuyên án lớn," lập một biệt đội điều tra chuyên lần dò theo các manh mối. Tuy nhiên, họ lại chưa làm được một cái gì cho nên việc trong mục tiêu khởi tố Mặt Trận về những hành vi bạo lực.
ProPublica và Frontline đã tiến hành điều tra, gặp gỡ, thẩm vấn các điều tra viên địa phương cũng như liên bang trong chuyên án Mặt trận và chúng tôi ghi nhận rằng họ đã làm việc thiếu chuyên môn, thiếu tinh tế, thiếu nhạy bén và thậm chí, lắm lúc họ thiếu cả những hăm hở nhiệt tình phải có. Thờ ơ với những manh mối nhỏ, bỏ qua những đầu mối chính. Cũng có một số điều tra viên làm nghiêm túc và mẫn cán đấy nhưng chẳng có kế hoạch phát triển mảng cộng tác viên cao cấp để săn tin. Theo các nhà điều tra đã làm việc trong chuyên án thì nghe lén điện thoại chẳng hạn, một trợ thủ cổ điển để thâm nhập vào các hội kín, đã chẳng bao giờ được dùng tới. Điều tra viên thường phải cầu trợ giúp về thông dịch. Và, vướng mắc trong suốt chuyên án là việc điều tra không thu hút được các đặc vụ tài giỏi hoặc sáng giá của FBI; cùng trong thời của những vụ án nổi tiếng khác, thì trong chuyên án này chẳng có ai nhờ nó mà thăng cấp cả.

FBI đóng chuyên án này vào cuối thập niên 1990’s. Trong một tuyên bố gởi cho ProPublica và Frontline, văn phòng FBI cho rằng dù các điều tra viên tài năng đã làm việc kiên trì, thế nhưng chỉ đơn giản là vì không truy đủ bằng chứng khả dĩ nên không thể tiến hành truy tố các tội phạm khủng bố. Các công sở thực thi pháp luật ở địa phương, trong đó có Sở Cảnh sát San Francisco, thì từ chối bình luận.

ProPublica và Frontline đã phỏng vấn được 5 người trực tiếp tham gia chuyên án của FBI, cũng như các thám tử cảnh sát địa phương. Chúng tôi cũng thu được nhiều tài liệu, hồ sơ của vụ án 30 tuổi này cùng với những bản báo cáo điều tra từ 7 cơ quan thẩm quyền. Chúng tôi đã nói chuyện được với ít nhất 10 người được xác định trong các hồ sơ tình nghi gây tội ác.

Đối với các quan chức có thẩm quyền liên quan mật thiết nhất trong chuyên án điều tra Mặt Trận, hầu như họ không mảy may bị ám ảnh trong tâm.
Katherine Tang-Wilcox, một cựu đặc vụ FBI phụ tá chỉ huy điều tra chuyên án trong nhiều năm, vẫn còn nhớ một cách sống động bảng thống kê tóm lược các vụ bạo lực và gây thương tổn mà Cục tin rằng Mặt Trận có trách nhiệm: tấn công cá nhân, dọa giết và tống tiền, thân nhân người bị giết phải ly tán đổ vỡ. Bà cho biết vụ án như đã gây cho bà một vết thương lòng nặng nề và dẫn đến ý định bỏ việc, nghỉ hưu.
Tuy nhiên bà không cho rằng các vụ án ấy cứ sẽ phải đóng lại mãi.
"Theo bà, có khả năng mở lại vụ án nếu có thông tin mới chứ?”
“Oh, có đấy!" Tang-Wilcox nói. "Bởi vì nếu có người tiên phong, sẽ khuyến khích những người khác tiếp bước. Thể nào cũng có người biết ai là kẻ phải chịu trách nhiệm cho từng vụ hay nhiều vụ. Không ai biết trước được chuyện gì. Và không có thời hiệu cho kẻ chịu tội giết người"


Tổ chức Việt Nam Diệt Cộng Hưng Quốc đảng, còn được viết tắt là VOECRN (Vietnamese Organization to Exterminate Communists and Restore the Nation) đã thừa nhận giết chết Dương Trọng Lâm. Các điều tra viên đều cho rằng đấy chỉ là 1 tổ chức ảo chịu tiếng thay cho Mặt Trận mà thôi – photo by ProPublica

Dương Trọng Lâm bị bắn vào ngực ngay sau 11 giờ sáng trên con phố lân cận với Tenderloin của San Francisco. Ôanh còn cố chạy lảo đảo khoảng 20 bộ (feet) trước khi ngã quỵ xuống vỉa hè. Một nhân chứng nói với cảnh sát là đã có tiếng quát lớn, và một, cũng có thể hai người đàn ông châu Á đã nhanh chân trốn thoát khỏi phạm trường.

Gia đình và bạn bè Lâm nhanh chóng nói với các thám tử rằng Lâm không thiếu kẻ thù. Tờ báo thiên cộng của anh bị nhiều người ghét. Bản thân anh thì đã nhiều tháng bị đe dọa. Chị gái của Lâm, Nancy Dương, cũng bị uy hiếp, có lần một người đàn ông đã chĩa súng vào đầu cô. Hắn nói, 'Mầy là Việt Cộng! Hãy cút khỏi đất nước này", Nancy Dương nhớ lại.
2 thám tử Sở cảnh sát San Francisco là Napoleon Hendrix và Earl Sanders được giao điều tra vụ án giết Lâm. Họ không thiên nhiều đến ý tưởng rằng vụ giết Lâm là một án mạng chính trị.
"Nếu đó là một vụ ám sát chính trị", Sanders nói với một tờ báo địa phương trong năm 1981, "thì gã sát nhân hãy nên trở về mà học lại cách giết người gây án"
Hendrix và Sanders bị lôi cuốn đến động cơ sát nhân vì mâu thuẫn tiền bạc. Họ đã bắt và buộc tội một người đàn ông là nhân viên thu ngân vừa là bồi bàn tại một nhà hàng ăn của Lâm. Nhưng vụ khởi tố hỏng ở từng trình tự buộc tội và bị quan tòa bãi án.
Nancy Dương cho biết, từ khi bắt đầu, cô đã cho các điều tra viên hay rằng lập trường chính trị của Lâm rất có khả năng là nguyên nhân cái chết của anh. Cô cũng báo cho điều tra viên những lời hăm dọa và những cuộc điện thoại đến nhà cô tuyên bố nhận đã giết Lâm.
"Tôi đã cố gắng tất cả mọi thứ," cô nói, "để cung cấp cho họ thông tin" "Tôi không nghĩ rằng họ quan tâm nhiều như vậy"
Những thành tố căn cốt trong câu chuyện đời của Lâm nên được bạch hóa để phát động việc săn lùng kẻ giết người.
Lâm rời Việt Nam vào năm 1971 khi chiến tranh gây bao tan tác phân ly. Đến Mỹ, anh theo học tại trường Cao đẳng Oberlin Ohio và, sau đó, tại Đại học California, Berkeley. Đó là những ngôi trường tự do, và đồng thời, sinh viên tự do, Lâm lên tiếng công kích cuộc tương tranh đẫm máu tại Việt Nam. Học xong đại học, anh để 1 đầu tóc hippie bù xù với một “con” Volkswagen cà tàng, quay hướng về San Francisco, nơi đây, anh ở thuê trong một căn hộ chung cư rẻ tiền và ném mình vào một loạt các dự định, trong đó những gì sẽ làm nên tờ nguyệt san của chính anh, Cái Đình Làng.

Duong Trong Lam thời theo học ở Oberlin

Khoảng vào mùa hè năm 1980, anh đăng lên báo ấy những bài viết về bè với bên thắng cuộc tại Việt Nam: chế độ cộng sản Hà Nội. Viết bằng tiếng Việt, anh mô tả tờ báo như 1 dạng tin vắn dành cho "thông tin" và "hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa". Các bài viết không phải lúc nào cũng xuất sắc; có một số báo cho in nổi bật trên trang nhất bài tường thuật một hội nghị được tổ chức bởi những kẻ đang cai trị tại Việt Nam, Campuchia và Lào.
Dẫu bản tin đã đưa chỉ khô khan vô vị vậy thôi, nhưng lại làm nhiều người trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt nổi điên lên. Những ký ức thương đau về chiến tranh vẫn còn nguyên đó chưa tiêu đi đâu kịp; và những cảm tình dành cho Hà Nội như thế này chẳng mấy ai ưa.

Nguyễn Đăng Khoa đã từng cấm súng trong chiến tranh, và qua một chi bộ của Mặt Trận ở Oakland, California, ông đã gia nhập tổ chức. Trong một cuộc phỏng vấn, chúng tôi hỏi ông cảm thấy gì khi nghe vụ giết Lâm.
"Tất nhiên là tôi rất “đã”. Tôi rất mãn nguyện", ông nói.

Chẳng lạ gì khi Lâm từng bị đe dọa nhiều lần trong những năm tháng độc hành với tờ báo của anh. Một người bạn của Lâm cũng nói với các điều tra viên những gì giống y như cũng như chị gái của Lâm đã nói.
"Trước khi chết khoảng hai tháng, anh biết đấy, anh ấy liên tục nhận được nhiều cuộc điện thoại, và rất nhiều thư cảnh cáo", người bạn Lâm nói với cảnh sát. "Tôi nghĩ rằng ắt phải có một tổ chức đằng sau đó"

Hendrix và Sanders, hai thám tử địa phương, đã phải cố nỗ lực để hiểu được những mưu toan ngấm ngầm và lòng phẫn nộ được xem như tính đặc trưng cho Little Saigon. Coi những bản tốc ký ghi lại các cuộc phỏng vấn thì họ đã tiến hành bắt giữ mấy người vì sự bực tức - vì ngôn ngữ bất đồng, hoặc những ai vì bối rối lo lắng đã nói lòng vòng.

Jayson Wechter, một thám tử tư nổi tiếng ở San Francisco đã xem kỹ lại vụ giết Lâm trong đầu những năm 1980’s, đã viết kể những khó khăn như vậy trong một bài báo cho tạp chí California Lawyer Magazine.
Đến Hoa Kỳ từ một đất nước "với một hệ thống pháp lý có tiếng là tham nhũng, người Việt mang theo trong mình một di sản định kiến chống chính quyền và các thẩm quyền pháp định", Wechter viết thế. Vào thời điểm đó, Wechter đã chỉ ra, California chỉ có một sĩ quan cảnh sát nói tiếng Việt, đó là một cựu chiến binh Thủy quân lục chiến đã chiến đấu trong chiến cuộc Việt Nam.

Trên cả nước Mỹ, nhiều chuyện cũng xảy ra hệt như vậy. Ví dụ, tại Houston, không có người Mỹ gốc Việt nào tham gia vào cuộc điều tra sơ khởi của cảnh sát trong vụ án mạng sát hại nhà báo Đạm Phong vào năm 1982. Về sau, việc điều tra của FBI gặp phải khập khiễng cũng bởi các vấn nạn tương tự. Đặc vụ FBI đảm trách chuyên án liên quan đến Mặt Trận không nói được tiếng Việt; các hồ sơ để bừa với các tin nhắn từ các đặc vụ luôn yêu cầu văn phòng của cục mau thuê thêm nhiều thông dịch viên.
Năm 1984 đã có gióng lên lời kêu gọi phải "thuê gấp thông dịch viên". Sáu năm sau đó, trong một bản ghi nhớ vẫn còn cho thấy các đặc vụ cộng tác thời vụ cho cục ở văn phòng địa phương San Francisco vẫn còn gởi yêu cầu về tổng hành dinh để xin được trợ giúp"
Hiện chưa có ai, dù là các đặc vụ của cục hoặc nhân sự hỗ trợ tại chỗ của chi nhánh FBI ở San Francisco, có khả năng dịch Việt ngữ sang Anh ngữ," ông viết. "Do đó, không có nguồn thường trực để khi cần là có ngay phiên dịch”
"Có một rào cản văn hóa, và mọi người e ngại thổ lộ", Trang Q. Nguyễn, một nhà tư vấn trong ngành truyền thông Việt ngữ ở Nam California nói.
Có người - dù ở San Francisco hay Houston, San Jose hoặc Virginia - đã e ngại không phải là ngại cảnh sát mà là sợ Mặt Trận phát hiện ra mình đã có nói gì đó với cảnh sát.

Đoàn Văn Toại, một nhà văn và cũng là nhà hoạt động chính trị, bị bắn vào mặt năm 1989 tại Fresno, California. Các tay súng đã không hề bị bắt, và Toại hiếm khi công khai đề cập tới vụ bắn ông. Nhưng trong một cuộc phỏng vấn gần đây với ProPublica và Frontline, Toại cho biết nhà chức trách hầu như đã hoàn toàn không sẵn sàng điều tra vụ án của ông cũng như những vụ tương tự khác. Điều đó nói lên rằng, ông [Toại] biết được những gì người ta đang ra sức chống lại.
Về dân chúng trong cộng đồng Việt, Toại cho biết, "Họ không bao giờ hợp tác đâu"
Tuy nhiên, vụ giết Lâm sớm sủa đến trong chiến dịch bạo lực của Mặt Trận, và việc điều tra nó dường như đã thiếu những nỗ lực cần thiết sơ đẳng. Bạn bè và người thân của anh đã nói về các kẻ hăm dọa đã gọi điện thoại đến Lâm, và cả về sau khi có các cuộc gọi đến gia đình của những người tự xưng là đã giết anh. Thế nhưng không có các chứng tích đó trong hồ sơ vụ án dù thậm chí thám tử đã có kiểm lại quá trình cuộc gọi tới Lâm, hoặc gọi tới chị gái Lâm.
Vài tuần sau khi Lâm bị giết chết, thám tử San Francisco nhận được một thư ngắn viết tay xác định một kẻ tình nghi, với đầy đủ tên, địa chỉ và số điện thoại. Kẻ tình nghi được miêu tả là một cựu sĩ quan cảnh sát Nam Việt Nam, người đã từng thẩm vấn những người bị tình nghi là cộng sản ở Sài Gòn. Thư ấy cũng nói người này hiện đang là thành viên của một tổ chức vũ trang chống cộng: Mặt Trận.
Các thám tử San Francisco cũng đã có được bức thư ấy đã được dịch sang Anh ngữ. Nhưng họ không hề tiếp tục bám theo chỉ dấu đó. Trong hồ sơ vụ án giết người chạy hàng trăm trang, không hề có dấu hiệu cho thấy các thám tử đã từng phỏng vấn một người từng được bức thư viết tay kia xác định như thế.

ProPublica và Frontline đã tìm được người đó ở San Jose và tiếp cận phỏng vấn ông. Ông cho biết đó là sự thật và rằng ông từng là một sĩ quan cảnh sát ở Sài Gòn. Nhưng ông nhấn mạnh rằng ông không gia nhập Mặt Trận và cũng không giết Lâm.
Khi được hỏi liệu ông đã từng nói chuyện với cảnh sát San Francisco về vụ giết nguuời, ông đã mau lẹ trả lời: "Không". Ông cho biết ông đã có nói chuyện ngắn gọn với các nhân viên FBI khoảng 15 năm sau vụ giết người nói trên.
Dù có hay không kẻ đã được gợi ý liên hệ đến vụ giết Lâm, thực tế cho thấy nhà chức trách đã bỏ mặc hoàn toàn các chứng cứ và không đoái hoài tới nỗi đau dày vò đã quá lâu nơi gia đình và bạn bè của Lâm.


Nancy Duong, chị của Duong Trong Lam, không biết ai đã giết em mình - Jason Henry for ProPublica

Những người hảo cảm với Lâm cuối cùng cũng đã khởi sự van nài FBI và các công tố viên liên bang vào cuộc. Họ một mực cho rằng vụ giết Lâm không chỉ là án mạng chính trị duy nhất mà còn có nguy cơ mở đầu cho một loạt các hành vi bạo lực sẽ được nhắm tới những ai mở đường giao hảo một cách hòa bình với Cộng sản Việt Nam. Cuối cùng, họ đã gởi thư trực tiếp cho Joseph Russoniello [Luật sư công tố liên bang], rồi cho luật sư đoàn San Francisco, nói rằng vụ án đã bị các thám tử San Francisco bỏ bê "cẩu thả" và rằng “giới chức trách đã từ chối điều tra theo hướng có động cơ chính trị tiềm ẩn trong án mạng này”
Họ cũng gợi ý Russoniello gởi một công văn đến FBI đặt nghi vấn xem thử liệu có bất kỳ lý do gì để tin rằng việc giết Lâm là một hành vi khủng bố hay không. Một đặc vụ cao cấp của FBI đã thân chinh đến văn phòng Russoniello để bảo đảm với ông là không có như thế.

FBI đã bị kẹt với kết luận ấy ngay cả về sau này khi nhiều nhà báo khác cũng đã bị thiệt mạng trong những vụ án mạng mang màu sắc chính trị. Khi chủ báo Phạm Văn Tập bị ám sát ở Nam California vào năm 1987, các thám tử liên bang ở Los Angeles đã thấy ngay một sự gì tương đồng giữa các vụ giết người bây giờ với vụ giết Lâm khi xưa. Thế là họ tìm đến các đồng nghiệp tại San Francisco xin được dở xem lại hồ sơ vụ giết Lâm.
"Sở cảnh sát San Francisco (SFPD -The San Francisco Police Department) và điều tra viên của FBI xác định rằng vụ giết Lâm có động cơ cá nhân và rằng không đủ bằng chứng cho thấy bất cứ gì liên quan tới động cơ chính trị", một điều tra viên ở San Francisco đã viết lại như thế.
Một bản ghi nhớ do các đặc vụ của biệt đội chống khủng bố của FBI soạn thảo các đã được gửi đi vào tháng Mười Hai năm 1987 và được đánh dấu “mật”. FBI đã ngụy trang lại tên thật của các đặc vụ trước khi giải mật và ban hành tài liệu đó cho ProPublica và Frontline.
Ngày nay, Nancy Dương vẫn còn giữ một bức ảnh trắng đen của em trai mình đã chụp cạnh một bàn thờ Phật nhỏ. Lâm tươi cười và trẻ trung trong ảnh.
"Cho đến tận giờ này, tôi cũng chẳng biết những gì đã xảy ra với em tôi," cô nói.

-----

Dẫu cục điều tra liên bang FBI lúng túng khi phá án các vụ tấn công cá nhân mà họ nghi Mặt Trận là thủ phạm, thì vẫn có một cách khác để cục theo đuổi một vụ án chống lại tổ chức này.
Đạo luật Trung lập của Mỹ cho phép xếp loại là tội phạm liên bang đối với bất kỳ công dân Hoa Kỳ kể cả thường trú nhân nào có hỗ trợ tài chính hoặc tham gia "bất kỳ một đội lục quân hay hải quân" nhằm chống lại một chính quyền "hiện không gây hấn với Hoa Kỳ"
Mặt Trận chả hề cần tỏ ra che giấu gì cái thực tế là họ đã khởi sự tuyển mộ quân binh cho hành vi cố ý phạm luật.
Họ cũng tổ chức các sự kiện công khai ở các thành phố trên khắp đất nước, khẩn nài cử tọa ủng hộ tiền của cho nỗ lực gây chiến của họ. Hình ảnh của "biểu tình kháng chiến" tại Santa Ana, California, Los Angeles và Washington, DC còn ghi rằng có những đám đông khổng lồ tụ tập để ủng hộ cho đại nghiệp đó. FBI còn biết Mặt Trận đã cho đăng quảng cáo trên các báo của người Mỹ gốc Việt nói thẳng việc quyên góp tiền bạc là để mua vũ khí; có quảng cáo còn hứa hẹn rằng, khi bạn chi một tấm séc (check – chi phiếu) cho tổ chức, tức là bạn đã giúp chúng tôi mua sắm vũ khí như súng trường và hỏa tiễn …
Rồi nào là các căn cứ quân sự của tổ chức đã được xây dựng ở Thái Lan, để từ đó dùng làm bàn đạp xâm nhập vào Việt Nam. Những hình ảnh, những thước phim chiếu cảnh huấn luyện binh sĩ ở căn cứ đã được tận dụng để nâng số tiền quyên góp tăng được nhiều hơn lên, có một đoạn phim hiện rõ câu chuyện về tham vọng quân sự của Mặt Trận như thế đã được truyền hình CBS phát sóng toàn quốc.


Nhưng khi chúng tôi lật xem lại hàng ngàn trang báo cáo điều tra của FBI, cũng như qua các cuộc phỏng vấn với các cựu đặc vụ FBI, cựu công tố viên, thảy đều không hề có chỗ nào bàn gì đến một cách đàng hoàng việc áp dụng đạo luật trung lập (đứng ngoài, không can dự) cho vụ này - ngay cả sau khi FBI đã như tiến sát đến mối tình nghi chính Mặt Trận ra tay trong các vụ ám sát trên đất Mỹ .
ProPublica và Frontline cũng đặt câu hỏi với FBI và luật sư đoàn San Francisco là tại sao Mặt Trận phát động chiến dịch quyền tiền với mục đích lật đổ chính quyền Việt Nam mà lại không bị khởi tố. Chẳng ai trả lời lấy một câu.
Tang-Wilcox, một trong những đặc vụ hàng đầu về điều tra chuyên án Mặt Trận, nói rằng bà nghĩ nếu làm thẳng tay như vậy thì không thể với bối cảnh chính trị thời thập niên 1980’s.
Vào thời đó, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đã cam kết điều mà người gọi là Học thuyết Reagan, theo đó Mỹ sẽ ủng hộ hết thảy các phong trào vũ trang chống cộng. Mỹ đã chống lưng cho quân nổi dậy chống Liên Xô ở Afghanistan, một binh đội ủy nhiệm trong cuộc nội chiến Angola, và tệ hơn, tiếp tay cho phiến quân khủng bố Contras ở Nicaragua.

Eugene Kontorovich, giáo sư Đại học Luật Northwestern, người đã đào sâu về Đạo luật trung lập, cho biết ông không ngạc nhiên khi không thấy mở ra vụ án nào chống lại Mặt Trận. Trường hợp truy tố theo Đạo luật trung lập là cực kỳ hiếm, ông nói, ngay cả khi các cá nhân hoặc tập thể đang vi phạm rõ ràng "tâm điểm những gì bị đạo luật nghiêm cấm". Sự hiếm thấy áp dụng như thế, ông nói thêm, đã làm nản lòng bất kỳ nỗ lực nào cố đem một vụ nào áp dụng đạo luật để truy tố. Áp Đạo luật trung lập để khởi án, Kontorovich bảo: "chẳng công tố viên nào hăng hái làm người tiên phong đâu"

Mặc dù các công tố viên liên bang đã không hành động gì trước bằng chứng Mặt Trận đã vi phạm Đạo luật trung lập, nhưng theo hồ sơ và theo các cuộc phỏng vấn cho thấy một phần các cơ quan liên bang - Bộ Ngoại giao, CIA, Bộ Quốc phòng - đã nhận thức rõ về hoạt động và mục đích của tổ chức này.
Theo một cuộc phỏng vấn với một nhân viên Bộ Ngoại giao nay đã nghỉ hưu và các cuốn hồi ký của một cựu lãnh đạo Mặt Trận, cho thấy trên thực tế, ông Hoàng Cơ Minh, lãnh tụ Mặt Trận và cũng là người đã giám sát tại trại huấn luyện của tổ chức ở Thái Lan, đã có lần gặp viên chức Bộ Ngoại giao [Mỹ] ở Bangkok để thảo luận về kế hoạch xâm nhập Việt Nam của tổ chức ông ta. Người mà Mặt Trận chọn làm cầu nối quan trọng nhất với chính quyền Mỹ là Richard Armitage.
Armitage là người có một quá trình thân cận lâu dài ở Việt Nam. Thời chiến tranh, ông là sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã gặp và kết thân với Minh trong thập niên 1970’s. Sau đó Armitage đã được giao nhiệm vụ hỗ trợ việc di tản chiến thuật của Hải quân Nam Việt Nam và nhân viên thuộc cấp khi sự sụp đổ của Sài Gòn bắt đầu lấp ló. Armitage tiếp tục thăng cấp thành viên chức cao cấp trong Bộ Quốc phòng thời chính quyền Tổng Thống Reagan, ông cũng là người giám sát chính sách của Mỹ ở vùng Đông Nam Á. Ông từng là Thứ trưởng ngoại giao thời Tổng Thống George W. Bush.

FBI đã phỏng vấn Armitage trong chuyên án Mặt Trận. Thực chất bài ghi chép buổi phỏng vấn năm 1991 đã được viết thành một bản báo cáo vắn tắt nội dung cuộc trao đổi chính thức, được định danh trong cách của FBI gọi là hồ sơ 302. Armitage nói với FBI rằng ông vẫn duy trì tình bạn thân với Minh trong nhiều năm sau khi Minh tới Mỹ vào năm 1975. Với FBI, ông nói ông tin rằng Mặt Trận có khả năng là thủ phạm các vụ ám sát chính trị, và ông cũng đã nghe đồn rằng Mặt Trận đã thực sự thực hiện các vụ giết người như vậy ở Mỹ.

Một tài liệu tóm tắt của FBI ghi lại cuộc phỏng vấn Richard Armitage [LTC: xin xem ảnh nhân vật Armitage và một ít chi tiết liên quan ở “Phần 2”] do các đặc vụ FBI thực hiện năm 1991 – nguồn ảnh ProPublica

Armitage không đồng ý cho ProPublica và Frontline phỏng vấn mà chỉ chịu trả lời các câu hỏi bằng văn bản. Armitage viết rằng ông đã coi Minh "một trong những sĩ quan xuất sắc" mà ông đã gặp tại Việt Nam. Ông khẳng định rằng ông đã có nói với FBI về những tin đồn ông nghe được việc Mặt Trận giết người ở Mỹ, và thừa nhận là ông đã không báo lại cho bất cứ ai trong các cơ quan thực thi pháp luật về những tin đồn đó trước khi có cuộc phỏng vấn với FBI năm 1991.
Armitage nói với ProPublica và Frontline rằng ông đã đánh giá ý tưởng xâm nhập Việt Nam của Minh là “một sự chuyện xuẩn ngốc” [“a fool’s errand”]. Nhưng, Armitage cũng nói, ông cũng đã có hỗ trợ tham mưu cho Minh khi viên chỉ huy du kích quân đã lập được căn cứ tại Thái Lan. Armitage cho biết ông cũng đã tiến cử Minh với các giới chức Thái Lan đồng cấp của ông.
ProPublica và Frontline không tìm thấy bằng chứng cho thấy có bất kỳ cơ quan nào thuộc chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ cho Mặt Trận. Thật vậy, Armitage cũng đã viết trả lời rằng ông đã làm cho cho các giới chức Thái Lan nhận thức rõ rằng không có một chương trình chính thức nào của Hoa Kỳ nhằm tiếp tay hỗ trợ cho các mục tiêu quân sự của Minh.
Tuy nhiên, có vẻ như sự hỗ trợ của Armitage [cho Minh] đã có hồi đáp: Một tướng Thái tên là Sutsai Hatsadin đã trở thành người bảo trợ của Mặt Trận, cho phép Minh lập chiến khu của mình trên một mảnh đất xa xôi trong rừng già ở Đông Bắc Thái Lan, không xa sông Mekong và biên giới với Lào … là bao. Tọa lạc trên một đỉnh đồi, nếu đi từ các làng mạc gần nhất thì phải trải qua một hành trình vất vả ít nhất sáu giờ đi bộ mới đến được chiến khu. Rồi thì ông và đồng đội cũng phát quang cây cối và xây dựng được một trại trú ẩn thô sơ với cây rừng. Ông cũng đã lôi kéo được vài trăm người đến trại, huấn luyện họ thuật du kích chiến và trang bị cho họ vũ khí hạng nhẹ với quân phục dã chiến.
Một bức điện tín của CIA năm 1984 đã được giải mật nói Minh và đội quân của ông đã nhận được nhiều tiền tài trợ do đóng góp của người Việt tị nạn, cũng như nhận được "hỗ trợ ngầm chút ít từ 'yếu tố nào đó' phát xuất từ phía Quân đội Hoàng gia Thái". Tiền bạc qua nhiều đợt Mặt Trận đã quyên được ở Mỹ thì được chuyển đến Thái Lan qua các hãng chuyển ngân.

Theo các cuộc phỏng vấn các cựu thành viên Mặt Trận cũng như chiến binh kháng cộng khác trong khu vực thời đó, thì số tiền mà tổ chức quyên được cho phép họ có thể mua một loạt các vũ khí chiến đấu hạng nhẹ, gồm AK-47 và súng trường M16 và súng phóng lựu chống xe tăng M72. Kế hoạch của Minh là chuyển quân về phía đông, băng qua sông Mekong, hành quân qua dải bình nguyên diện rộng của Lào rồi mới tuồn quân vào Việt Nam.

các cựu thành viên Mặt Trận nói Hoàng cơ Minh sát hại chính những đồng đội của mình trong chiến khu -nguồn ảnh: ProPublica

Sau một chuyến đi dài bằng xe tải qua lớp lớp những con đường bùn lầy trơn trượt xuyên qua các vùng làng quê của Thái, ProPublica và Frontline đã tìm được một trong những đồng đội cũ -người Lào- của Minh, hiện sống tại một làng quê ruộng nương thôn dã. Ông nói, Minh trừng phạt rất tàn bạo những ai không còn quyết tâm với sứ mạng. Các kháng chiến quân người Lào, cũng tức là 5 người đàn ông đã gia nhập Mặt Trận và đã từ Thái Lan băng bộ vào chiến khu khi xưa, kể lại rằng Minh đã xử tử lên tới 10 binh sĩ của mình vì tội bất phục tùng hoặc thiếu nhiệt tâm. Có khả năng một hoặc nhiều trong số đó là công dân Hoa Kỳ.
FBI đã nhận được ít nhất một báo cáo về các vụ giết người trong chiến khu. Một thành viên của Mặt Trận trốn thoát vào năm 1986 và đã liên lạc với cục điều tra FBI tại Honolulu, nói với các đặc vụ FBI là hai tân binh đã bị giết trong chiến khu. Không rõ rồi FBI đã làm gì với các thông tin đó.

Bản cáo trạng do các công tố viên liên bang ở San Jose công bố vào ngày 10 Tháng 4 năm 1991 có vẻ như một cơ hội khả dĩ sau cùng có thể chặn đứng được chiến dịch khủng bố của Mặt Trận. Năm cán bộ Mặt Trận đã bị cáo buộc lấy hàng chục ngàn đô la quyên góp cho nỗ lực chiến tranh ở ngoài Hoa Kỳ, đem vào sử dụng với mục đích cá nhân, và rồi đã không trả thuế trên số tiền đó.

"Các khoản đóng góp chuyển thành thu nhập riêng cho các bị cáo, mà họ không khai báo với Sở Thuế Vụ" – theo bản cáo trạng.

Hai trong số các bị cáo phải đối mặt với án 20 năm tù giam. Những người khác vào khoảng 15 năm.

Doug Zwemke, trung úy cảnh sát San Jose đã về hưu, người đã giúp các công tố viên liên bang tiến hành các vụ án trốn thuế chống lại Mặt Trận, hay tin hủy án qua một cú điện thoại từ văn phòng của công tố viên liên bang (Courtesy of Frontline)

Doug Zwemke, một cựu trung úy cảnh sát San Jose đã giúp các công tố viên liên bang tiến hành các vụ án trốn thuế, cho biết ông đã bị thuyết phục rằng rốt cuộc sẽ gom các bị cáo đến chỗ những xấp tiền, để họ chịu cung cấp thông tin về các vụ bạo lực của Mặt Trận nhắm vào các nhà báo và những vụ khác nữa… để đổi lấy bản án nhẹ hơn.

Thế là một vụ án thuế liên bang vào thập niên 1990’s đã đem lại tia hy vọng cho các điều tra viên đang tìm cách giải quyết các vụ sát nhân và tội phạm khủng bố - nguồn ảnh: ProPublica

Thế là một vụ án trốn thuế liên bang vào thập niên 1990’s đã đem lại tia hy vọng cho các điều tra viên đang tìm cách phá án các vụ sát nhân và tội phạm khủng bố.
"Phạm tội chỉ là bình thường" Zwemke nói, "chịu khai mới là phép lạ"
"Vì thế, bạn nên gom họ lại chỗ tiền bạc, và họ bắt đầu …" Zwemke nói. "thế rồi bạn chỉ việc cầm bút điền vào cái biểu đồ cấu trúc tổ chức"
Rất có thể, ông cho biết, nhà chức trách có thể đã dùng kế sách buộc tội kiểu đó, và tiếp đó là bản cáo trạng của "những tay sát thủ, những kẻ giết người"
"Nó có thể mở ra được nhiều cánh cửa lắm" Zwemke nói.

Nội vụ đã phải đeo đuổi ròng rã hằng nhiều năm trời, nay bắt đầu với một cái mối mẹo bắt nguồn từ một trong những nhân tố đem lại tin tức cho Zwemke ở San Jose, một trung tâm của người Mỹ gốc Việt.

Làm việc với FBI và Zwemke, các đặc vụ Sở Thuế -IRS (Internal Revenue Service)- đã chịu khó truy nguyên nguồn tiền khi nó di chuyển lòng vòng từ năm 1984 đến 1987 qua một mớ tài khoản ngân hàng và các doanh nghiệp do Mặt Trận kiểm soát. Ngân khoản đổ vào các tài khoản ngân hàng của Mặt Trận tại California là xuất phát từ các nhà tài trợ trên khắp thế giới. Tổ chức đã chuyển một lượng tiền lớn đến Vọng Các, phỏng chừng có lẽ để chi dụng cho binh sĩ ở Thái Lan. Nhưng có nhiều khoản tiền bị cáo buộc là đã đổ vào các tài khoản cá nhân của một đầu lĩnh Mặt Trận, đó là em trai của Minh, Hoàng Cơ Định, người có tới 3 bí danh (Định đã từ chối cuộc trao đổi với ProPublica và Frontline về thiên phóng sự này)

Tất cả các thành viên Mặt Trận bị truy tố đều khẳng định họ vô tội.
Trong phần biện hộ, các luật sư của họ lập luận rằng các thành viên Mặt Trận được hưởng quyền miễn trừ, khỏi bị truy tố, vì họ đã ký một thỏa thuận bí mật với CIA và Bộ Quốc Phòng, để đổi lấy sự giúp đỡ của họ trong việc tìm kiếm tung tích tù binh Mỹ ở Việt Nam, và các cơ quan công quyền cũng đã cho phép Mặt Trận làm những gì họ muốn qua việc tổ chức quyền tiền ở Mỹ. Các công tố viên chế giễu yêu sách đó. Một luật sư bào chữa, trong một lần được phỏng vấn gần đây, khẳng định có đủ chứng lý để chứng tỏ các đòi hỏi đó là chính đáng, nhưng vị luật sư không chịu tiết lộ cũng không thảo luận thêm về nó.

ProPublica và Frontline cố tìm cách để có được toàn bộ hồ sơ vụ án để dựng lại những gì đã xảy ra. Và thật là ngạc nhiên, viên chức tòa án liên bang ở San Jose và San Francisco bảo các hồ sơ đã bị mất, còn Trung tâm lưu trữ liên bang [Federal Records Center], nơi lưu trữ hồ sơ các vụ án cũ, thì không biết các hồ sơ đó giờ nằm ở đâu.
Các văn phòng của luật sư đoàn hiện nay tại San Francisco thì từ chối trao đổi về vụ này. Cả Bộ Quốc Phòng lẫn cơ quan tình báo CIA cả hai cũng từ chối nói chuyện về Mặt trận.
Dựa vào một ít ỏi các hồ sơ vụ án nay còn sót lại, cũng như y cứ theo các cuộc phỏng vấn với những người từng tham gia, liên quan đến nội vụ, đã cho thấy vụ án [Mặt Trận] đã bất ngờ đi đến kết thúc một cách đầy thất vọng.

Ngày 04 Tháng 1 năm 1995, tức khoảng bốn năm sau khi bản cáo trạng đã được công bố, Thẩm phán James Ware đã tổ chức một buổi điều trần thể theo nguyện vọng từ phía luật sư của Mặt Trận. Các luật sư cho rằng thân chủ của họ đã bị từ chối quyền được xử án nhanh. Các thẩm phán tỏ ra bối rối ngượng ngập thừa nhận rằng yêu cầu đó đúng, và tuyên hủy vụ án.

Zwemke nói ông hay tin hủy án qua một cú điện thoại từ văn phòng của công tố viên.Trợ lý luật sư đoàn còn nói ít hơn: "Xin lỗi, tôi đã không nhìn đồng hồ". Zwemke nhớ lại. "Bạn định chơi khăm tôi ấy à?"

Các công tố viên đã quyết định không đệ trình lại bản buộc tội trong lần xử tiếp theo – tức là đối với những trường hợp buộc tội từ một thập niên trước đó thì các quan chức thực thi pháp luật cho biết triển vọng pháp lý hợp lệ nhằm mang sang một vụ án mới đã không còn hiệu lực. Các điều tra viên đã kết luận rằng việc tìm kiếm bổ sung thêm chứng cớ mới hơn sẽ khó khăn vì Mặt Trận đã thu xếp chỉn chu lại hết sổ sách kế toán của họ.
"Họ đã bắt đầu ý thức được phải cẩn thận về những gì đang làm, vì vậy mà các chứng từ đó trước đây đã từng có, thì bây giờ sẽ không còn nữa". Tang-Wilcox, cựu đặc vụ FBI nói.
Thời khắc mà bà hằng chờ đợi có thể phá án vụ Mặt Trận "đã trôi qua", bà nói.

Còn Zwemke thì bỗng mất trắng. Trong quá trình điều tra, giữa bao thứ đang còn ngổn ngang, đột nhiên cộng sự viên của Zwemke, Chú thích nhỏ của người dịch: chữ trong nguyên bản là Informant nghĩa Việt ngữ là người cung cấp tin tức, trong văn cảnh của bài này, được dịch là cộng sự viên người khởi đầu đem ông đến với các manh mối … lại bị giết chết.
"Dù ông ta bị ám sát vì đã giúp tôi hay là vì Mặt Trận," Zwemke nói, "thì có điều là kẻ giết người cũng đã không hề bị bắt"
Một bản ghi nhớ của FBI còn ghi lại rằng tin vụ án bị tuyên hủy như đã gây nên “cơn sốc dây chuyền” trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt không tin nổi các nhà thực thi pháp luật Mỹ lại áp dụng nhiều ưu tiên như thế trong chuyên án điều tra bạo lực của Mặt Trận. Kết thúc vụ án với kết cục mà FBI đưa ra – bảo rằng dựa trên "khía cạnh chuyên môn của luật" - chỉ tổ gây ra mối hoài nghi sâu đậm trong những người Mỹ gốc Việt.

-----


Sau đó vào năm 1995, Louis Freeh, khi đó là giám đốc của FBI, đã tới thăm văn phòng của cục ở San Francisco, nơi Tang-Wilcox đã miệt mài bám sát chuyên án Mặt Trận.
Thường phải đơn độc làm việc trong nhiều năm trời, bà đã kéo về cả núi hồ sơ điều tra từ các đặc vụ trên toàn quốc, cố sục sạo trong đám ấy manh mối gì khả dĩ liên hệ Mặt Trận với hơn hai chục hành vi tội ác.
Cuối cùng nhân được yết kiến với Freeh, Tang-Wilcox nói bà đã yêu cầu trực tiếp với ông ngay trước mặt các đặc vụ khác: “Hoặc cho tôi nguồn lực để theo đuổi các vụ án này hoặc kết thúc nó đi”
Gần 15 năm sau, vụ giết Lâm bước đầu đã đưa ra được một gợi mở về những mưu đồ của Mặt Trận, Freeh đã quyết định đặt một ưu tiên phá án cho vụ án của tổ chức này. Cuộc điều tra được chính thức công bố là một "vụ trọng án" về tội phạm có tổ chức và truy nguyên nạn khủng bố nội địa, một động thái khiến cần thêm nhiều đặc vụ.
Cùng lập thành một đội chuyên án với khoảng nửa tá đặc vụ, Tang-Wilcox đã làm được nhiều việc đáng kể. Bà du một chuyến đến Pháp để phỏng vấn một nhà văn, người đã bị đánh đến bất tỉnh tại Quận Cam của Little Saigon vào năm 1988. Đồng nghiệp của Bà ở Washington, DC, đã tiến hành 200 cuộc phỏng vấn về các vụ giết Lê Triết và Đỗ Trọng Nhân, cùng là đồng nghiệp của tờ Tạp Chí Văn Nghệ Tiền Phong đã bị giết một cách tàn bạo. Phòng thí nghiệm của phòng điều tra tội ác đã cho kiểm tra lại các bằng chứng đã qua giảo nghiệm pháp y được thu thập từ nhiều năm trước bởi cảnh sát địa phương trong nhiều thẩm quyền khác nhau; trường hợp của Lâm chẳng hạn, các đặc vụ đã cố gắng thử nghiệm xem các viên đạn được lấy từ xác Lâm có khớp với nhiều loại súng đang sẵn có trong kho dữ liệu của FBI…. hay không.

Tên của chuyên án được cục điều tra FBI mã hóa là VOECRN, chữ viết tắt từ tên tiếng Việt là Việt Nam Diệt Cộng Hưng Quốc đảng. Các nhà điều tra tin rằng Mặt Trận dùng tên này để tuyên bố thừa nhận các vụ khủng bố và giết người mà họ đã làm. Có nhiều hồ sơ mang nội dung những yêu cầu trợ giúp bởi những người làm việc với tư cách cộng sự viên; có danh sách những người bị nghi ngờ là "sát thủ", càng cho thấy rõ rằng các đặc vụ đều tin Mặt Trận đã có một đội ám sát, được gọi là "K-9." Cũng có cả sơ đồ tổ chức của Mặt Trận nữa.

Katherine Tang-Wilcox (trái, với A.C. Thompson trong Phim “Terror in Little Saigon”) là một trong những nhà điều tra hàng đầu trong việc chuyên án Mặt Trận của FBI. (Screenshot by LTC)

Các hồ sơ - từ cả trước lẫn sau khi cuộc điều tra được chính danh là “vụ trọng án” - cũng thể hiện rõ tâm trạng lẫn lộn của các đặc vụ “lạc quan thì ít mà thất vọng thì nhiều”. Trong một bản ghi nhớ, một đặc vụ than phiền về cuộc điều tra là "phức tạp trùng trùng". Một phần của sự phức tạp đeo đẳng vào nội vụ là vì có những băng nhóm cướp bóc và tống tiền cũng tham gia gây án bạo lực trong cộng đồng Mỹ gốc Việt nữa. Các đặc vụ đã ghi lại nhân xét rằng bất kỳ hành vi bạo lực cá nhân đơn lẻ nào cũng có thể có nhiều cách giải thích. Tiếp nữa là có một bản tạm gọi là bản ghi nhớ (Bị Vong Lục) nói rằng: "sự mất lòng tin vào cơ quan thực thi pháp luật và chính phủ" trong số người Mỹ gốc Việt.

Trong thâm tâm, các đặc vụ nhận ra là sẽ phải trả một cái giá đắt nếu không phá được những vụ án tội ác này. Một bản viết tay của một đặc vụ ở Los Angeles vào năm 1991 đã cảnh cáo thượng cấp về một mối nguy cơ nếu hấp tấp sớm đóng lại cuộc điều tra.
"FBI nên chuẩn bị sẵn câu trả lời ngay từ bây giờ hoặc trong tương lai nếu có câu hỏi từ các dân biểu hay giới vận động hành lang gốc Việt là tại sao các cuộc điều tra đã bị đóng?" các đặc vụ đã viết thế. Cùng với nhiều thứ khác nữa, các đặc vụ viết tiếp, FBI sẽ phải giải thích vì sao sau nhiều năm điều tra như thế mà lại đã thất bại trong việc thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của Mặt Trận.

Qua những cuộc phỏng vấn với các cựu đặc vụ và các cựu công tố viên đã cùng làm việc trong chuyên án, đã khiến nẩy ra một sự thực là rằng nếu đừng kể đến việc dẫn truyền các nguồn động lực vào năm 1995, thì nhiều đặc vụ đã coi rẻ chuyên án như một đứa trẻ hoang giữa lòng cơ quan FBI. Một đặc vụ FBI đã nghỉ hưu, người chuyên sâu công tác điều tra đã ví von chuyên án như là việc "đuổi một con ngỗng hoang dã" mà chẳng bằng gì cả ngoài cái giả định là "có âm mưu"

Một cựu đặc vụ FBI góp ý riêng cho rằng những người bị giết đã dại dột khi quyết định bày tỏ bộc trực về các vấn đề dễ gây xung khắc khiến người ta không chịu nổi nữa. Nhiều đặc vụ khác thì chỉ trích cái lề lối lãnh đạo của Tang-Wilcox, nói rằng bà còn muốn làm sếp cả cấp chỉ huy của bà nữa.
"Đó là một công tác mà chẳng đặc vụ nào muốn nhận" Tang-Wilcox thừa nhận.
Ngược lại, các đặc vụ lại háo hức tham gia cuộc săn lùng Unabomber, vô kẻ chính phủ, là tác giả một bản tuyên ngôn 35.000 chữ chống công nghệ và gửi bom thư tới giám đốc điều hành hãng hàng không, các viện nghiên cứu, và những người khác. Lực lượng đặc nhiệm phải dò tìm hàng loạt bom – hắn đã giết 3 người và làm bị thương 24 người – gởi đi lên đến hơn 150 văn phòng thường trực, mà phần lớn trong số đó có trụ sở được bố trí ở San Francisco. May là nhờ có một đầu mối từ anh trai của kẻ sát nhân, FBI mới bắt được hắn vào năm 1996.

Phải nhiều năm ròng nhiều đặc vụ liên bang mới nhận thức đầy đủ bản chất chính trị của chủ trương bạo lực đối với các nhà báo gốc Việt là đáng giá.
Quá trình kiểm định thông tin của ProPublica và Frontline cho thấy rằng, năm 1995, cuối cùng FBI đã thử gộp 30 cảnh báo hăm dọa giết người vào với những tuyên bố chịu nhận trách nhiệm mà các điều tra nghi là do Mặt Trận ban hành, thì họ nhận ra rằng 19 trong số các tài liệu gốc hoặc đã không bao giờ được thu gom lại hoặc đã bị hủy hoặc bị thất lạc.
Và trong khi hồ sơ FBI cũng thể hiện là các đặc vụ đã yêu cầu phải trình tòa các bản ghi âm các cuộc điện đàm trên điện thoại của khoảng 80 người liên quan, thì Tang-Wilcox cho biết các văn phòng chưa hề khai thác đúng mức thông tin chi tiết để đạt được việc thúc đẩy quan tòa chấp thuận cho nghe lén điện thoại. Những trì trệ đó, các đặc vụ cũng như các công tố viên đều thừa nhận là có, khả dĩ giải thích tại sao, trong dịp đại bồi thẩm đoàn liên bang được triệu tập tại khu vực Vịnh [San Francisco] hồi thập niên 1980’s và một lần nữa vào thập niên 1990’s, lại không có cáo trạng nào liên quan đến bạo lực đã được đệ trình.

Johnny Nguyễn phải ra trình diện trước một trong những đại bồi thẩm đoàn. Trong thập niên 1980 và đầu những năm 1990, theo FBI, Johnny Nguyễn làm chủ một cửa hiệu khang trang ở Houston và có tham gia trong một tư cách nào đó với một hãng luật tại địa phương. Quanh vùng Houston người ta đều biết ông là một doanh nhân thành đạt. Ông cũng từng mang cấp bậc Trung úy bộ binh quân lực Nam Việt Nam và một thành viên hãnh tiến của Mặt Trận. Cho đến ngày nay, ông nói ông vẫn tôn thờ Hoàng Cơ Minh, người sáng lập Mặt Trận.

Nhờ sự giúp đỡ của Sở Cảnh Sát Houston, FBI đã tìm cách mở rộng càng nhiều thông tin càng tốt về Johnny Nguyễn. Một người cung cấp tin nói với các đặc vụ rằng "với tư cách thủ lĩnh tổ ám sát K-9 của Mặt Trận" Johnny Nguyễn đã giết Đạm Phong, chủ báo ở Houston, "vì ông ta đăng nhiều bài báo chỉ trích Mặt Trận và những gì Mặt Trận đang đeo đuổi". Cũng theo các tài liệu liên quan cho thấy những cộng sự viên khác, ủng hộ giả định đó, kể cả một cựu thành viên của Mặt Trận cũng đồng tình như thế.
Nhiều điều còn chưa được sáng tỏ về tư cách của Johnny Nguyễn khi trình diện trước đại bồi thẩm đoàn. Các cựu đặc vụ và các cựu công tố viên thì bị luật kháng biện ngăn không cho tranh luận về điều đó. Còn Johnny Nguyễn thì thoải mái thừa nhận những gì ông đã khai, ông còn lấy việc thiếu vắng, không có bản buộc tội như là một chứng tỏ rằng ông ta vô tội.

Sau nhiều tháng tìm kiếm, ProPublica và Frontline tìm ra Johnny Nguyễn, bây giờ đây đã ở tuổi 70, trong một bộ complet đen tại một buổi lễ tưởng niệm Hoàng Cơ Minh diễn ra hàng năm tại Houston. Ông nói rằng ông không hề biết Đạm Phong, lại càng không làm hại ông ta bao giờ. Ông thẳng thừng phủ nhận rằng ông đã từng là một thành viên của K-9. "Cảnh sát nhảm nhí" ông nói.
Johnny Nguyễn nói những nghi ngờ của FBI rằng ông là một sát thủ của Mặt Trận là "nhảm nhí" (Courtesy of Frontline)
Khi được hỏi liệu có khi nào Mặt Trận từng đem bạo lực chống lại những kẻ chỉ trích mình hay không, Johnny Nguyễn nói, bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh: "Không bao giờ"

Johnny Nguyễn là một con người kiêu hãnh. Trong những ngày này, ông đang điều hành một trường dạy lái xe. Và trong khi ông biết là cần phải gia hạn chính bằng lái xe của mình, ông vẫn có ý định chứng minh ông không phải là loại người cao tuổi sức yếu. Có lúc, ông bỗng cởi áo khoác và áo sơ mi để lộ cơ bắp tay khoe ra.

Còn về những người nghĩ rằng ông có khả năng là tay sát thủ, ông nói: "Tôi nói với họ, 'Được rồi, cứ việc đi nói với FBI rằng tôi là K-9 đi?!. Kêu FBI bắt nhốt tôi lại đi?!. “Lấy gì chứng minh? Bằng chứng đâu?” - "Họ im lặng"

Nỗ lực chuyển mình của cục điều tra liên bang FBI để phá chuyên án Mặt Trận năm 1995 kéo dài được vài năm. Cục cũng không nói chính xác khi nào chuyên án khủng bố nội địa này sẽ chính thức đóng lại. Nhưng tuyên bố của FBI đưa ra để hồi đáp cho các câu hỏi chi tiết của chúng tôi về cuộc điều tra chuyên án đó thì cũng chẳng khác gì cái mà họ đã ban ra như thế cách đây 20 năm:

Nhiều vụ đã được các chuyên gia giàu kinh nghiệm FBI dẫn đầu và đã thu thập được nhiều bằng chứng cũng như đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn đồng thời phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư Pháp và các luật sư để xác định những kẻ chịu trách nhiệm về những tội ác đã gây ra và đem lại công lý cho các nạn nhân. Bất chấp những nỗ lực đó, suốt 15 năm điều tra, Bộ Tư Pháp và FBI cùng kết luận rằng cho đến nay, vẫn chưa có đủ bằng chứng để thực thi việc truy tố"

Trong cuộc phỏng vấn với ProPublica và Frontline, Tang-Wilcox đã đi xa hơn. Bà bày tỏ sự hối tiếc.
"Tôi thấy quá tệ," bà nói. "Tôi đã chẳng đem được kẻ nào ra đối diện với công lý, chẳng đem lại được đoạn kết có hậu cho những gia đình nạn nhân'."

Đóng lại cuộc điều tra cấp liên bang, các vụ án giết người - Lê Triết và Đỗ Trọng Nhân tại Virginia, Phạm Văn Tập ở Garden Grove, California, Nguyễn Đạm Phong ở Houston và Dương Trọng Lâm ở San Francisco - được trao trả lại cho sở cảnh sát địa phương, cho phép họ tiếp tục săn lùng những kẻ sát nhân nếu họ muốn.
Hiện có vẻ chẳng có mấy cơ quan thẩm quyền ở cấp địa phương ham làm tiếp những cuộc điều tra ấy.
Sau nhiều tháng cố gắng tiếp xúc với các thám tử chẳng mấy nhiệt tình tại Sở Cảnh Sát San Francisco về vụ án giết Dương Trọng Lâm, gần đây ProPublica và Frontline bỗng nhận được một cuộc gọi điện thoại. Các thám tử không nói về chuyên án đó mà cho biết họ vừa mới lôi các hồ sơ ra khỏi kho lưu trữ để bắt đầu đọc.


by Adam Clay Thompson, ProPublica, November 3, 2015 - Lê Tùng Châu dịch sang Việt ngữ

©LTC 2015

[hết phần 3 (Part II)]

Phần 4 tức Part III: Lưu Vong lần thứ hai (A Second Exile) chúng tôi đang chờ trang ProPublica post bài xong sẽ dịch tiếp hầu bạn đọc.

Updated Dec. 3, 2015: xin đọc tiếp ở đây: Phần III tức “Lưu Vong lần thứ hai”


by Adam Clay Thompson, ProPublica, November 3, 2015 - Lê Tùng Châu dịch sang Việt ngữ


Văn bản nguyên văn:

Part II:
A Failed Case Grows Colder



Just 24 hours after Duong Trong Lam’s murder on July 21, 1981, a San Francisco police detective wrote out a short list of motives that might explain how the 27-year-old newspaper publisher had come to be fatally shot outside his apartment building. Some of the detective’s guesses were routine: love perhaps, maybe money.
But police records show the detective had reason to consider another possibility: politics. Lam and the newspaper he put out were seen as sympathetic to the Communists back in Vietnam, and Lam had received threats from those in the Vietnamese-American community who considered him a traitor.
Within days of Lam’s murder, a public claim of credit surfaced — a communiqué sent to the Associated Press saying Lam had been punished because he was pro-Communist. Weeks later, Lam’s friends wrote formally to the local police and the FBI, citing the communiqué and expressing worry that Lam’s murder was part of a widening pattern of politically motivated violence.
The authorities, records and interviews show, nonetheless rebuffed the idea. Pressed by Lam’s friends, federal prosecutors asked the FBI if Lam’s murder might have been “a possible terrorist act.” The FBI stood by its position that the killing was not political.
Ultimately, agents spent years investigating a string of similar crimes in Vietnamese-American enclaves — separately, in field offices around the country — before recognizing their mistake: Not only was Lam killed for expressing his views, they came to believe, but he was one of a number of Vietnamese-American journalists murdered by an organization with dreams of one day retaking Vietnam and dedicated to wiping out anyone who challenged it. By then, the FBI suspected that the organization, known as the Front, was responsible for killings in California, Texas and Virginia, and for a raft of arsons, beatings and threats across the U.S.
In 1995, the bureau consolidated some two dozen incidents into a single “major case,” creating a squad of agents to chase down leads. Still, it never succeeded in making a criminal case against the Front for the violent acts.
ProPublica and Frontline’s examination of the local and federal investigations of the Front shows they were marked by a lack of expertise, resources, urgency and even, on occasion, basic curiosity. Tips were ignored and leads were allowed to grow cold. While some investigators did earnest and diligent work, no high-level informants were ever developed. Wiretaps, a classic tool for penetrating secretive organizations, were never used, according to investigators who worked the case. Agents often pleaded for resources as basic as translators. And, hampering it throughout, the investigation held little appeal for the FBI’s best and brightest; in an era of other high-profile cases, this one wasn’t going to make anyone’s career.
The FBI closed the case in the late 1990s. In a statement to ProPublica and Frontline, the bureau said talented investigators had worked doggedly, but simply were never able to produce enough evidence to sustain a prosecution of the terrorist crimes. Local law enforcement departments, including the San Francisco Police Department, would not comment on the cases.
ProPublica and Frontline interviewed five people directly involved with the FBI investigation, as well as local police detectives. We obtained 30-year-old case files and investigative reports from seven jurisdictions. We spoke with at least 10 people identified in the files as suspects in the crimes.

For the law enforcement officials most intimately involved in the investigations of the Front, the inability to make a case haunts them.
Katherine Tang-Wilcox, a former FBI agent who helped lead the investigation for years, still vividly recalls the compendium of violence and trauma the bureau believed the Front responsible for: the professional hits, the taunting death threats and claims of credit, the bereft families of the dead. She said the case had given her an ulcer and led to her retirement.
But she doesn’t think the cases have to stay closed.
“Should they be reopened if new information’s developed? Oh, yeah,” Tang-Wilcox said. “Because if one person comes forward, that’ll encourage others to come forward. Somebody knows who’s responsible for each and every one of these acts. There’s somebody that knows. And there is no statute of limitation on homicide.”
Duong Trong Lam was shot in the chest shortly after 11 a.m. in the streets of San Francisco’s Tenderloin neighborhood. He managed to stagger some 20 feet before he collapsed onto the sidewalk. There had been shouting, witnesses told police, and one, possibly two, Asian men had fled the scene.
Lam’s family and friends quickly told detectives Lam had no shortage of enemies. His pro-Communist newspaper was widely hated. He’d been threatened for months. His sister, Nancy Duong, had been menaced, too, when a man placed a gun against her head.
“They say, ‘You’re Viet Cong! Get out of the country,’ ” Nancy Duong recalled.
Napoleon Hendrix and Earl Sanders were the San Francisco Police Department detectives assigned to the Lam case. They didn’t think much of the idea that Lam’s murder was a political hit.
“If that was a political assassination,” Sanders told a local newspaper in 1981, “the guy should go back to assassin school.”
Hendrix and Sanders were more enamored of the idea the killing resulted from a dispute about money. They arrested and charged a man who had worked as a cashier and waiter at a restaurant Lam owned. But the case fell apart and was dismissed by a judge.
Nancy Duong said that from the very start, she told investigators that Lam’s politics were likely behind his death. She informed them of the threats and phone calls to her house claiming credit for his death.
“I tried everything,” she said, “to give them information.”
“I don’t think they cared that much.”
The basics of Lam’s life story should have made it obvious where to start the search for his killer.
Lam left Vietnam in 1971 as war was tearing it apart. When he got to the U.S., he enrolled at Ohio’s Oberlin College and, later, at the University of California, Berkeley. They were liberal schools, and as a student, Lam came to decry the bloody conflict in Vietnam. After college, he headed for San Francisco — he had a pile of shaggy hippie hair and an ailing Volkswagen bug — where he rented a cheap apartment and threw himself into an array of projects, including what would become hismonthly newspaper, Cai Dinh Lang.
He launched the publication, which was supportive of the victorious Communist regime in Hanoi, in the summer of 1980. Writing in Vietnamese, he described the paper as a bulletin for “information” and “socialist ideology.” The stories weren’t always scintillating; one issue featured a front-page account of a conference held by the rulers of Vietnam, Cambodia and Laos.
However dry, such coverage was incendiary for many in the Vietnamese-American community. Memories of the war were raw; those sympathetic to Hanoi were loathed.

Nguyen Dang Khoa had fought in the war, and he had joined a chapter of the Front in Oakland, California. In an interview, we asked him what his reaction had been to Lam’s murder.
“Of course I was ecstatic. I was very happy,” he said.
Lam, not surprisingly, had been threatened repeatedly in the lone year his newspaper existed. A friend of his told this to investigators, as did Lam’s sister.
“Before he die, about two months, you know, he kept receiving a lot of phone calls, a lot of warning letters,” the friend told police. “I think there is some organization behind it.”
Hendrix and Sanders, the two local detectives, made some effort to understand the intrigue and anger that defined Little Saigon. But transcripts of the interviews they conducted capture some of their exasperation — with people who didn’t speak the language, or those they worried were not being forthright.
Jayson Wechter, a well-known San Francisco private investigator who examined Lam’s murder during the early 1980s, wrote about such difficulties in an article for California Lawyer magazine.
Coming from a country “with a notoriously corrupt legal system, the Vietnamese brought with them a historical prejudice against government and legal authorities,” Wechter wrote. At the time, he pointed out, California had only one Vietnamese-speaking police officer, a Marine Corps veteran who had fought in the war.
Around the country, the story was much the same. In Houston, for example, there were no Vietnamese Americans involved in the initial police probe of the killing of newspaper publisher Đạm Phong in 1982. The later FBI investigation was hobbled by similar problems. Agents working cases involving the Front could not speak Vietnamese; the files are littered with messages from agents asking the bureau to hire more translators.
There is a 1984 call for the “emergency hiring of linguists.” Six years later, a memo shows the Special Agent-in-Charge for the San Francisco Field Office still asking headquarters for help. “There is currently no one, either Special Agents or Support personnel in the San Francisco division, capable of translating Vietnamese into English,” he wrote. “Consequently, there is no resource pool from which to locate a linguist.”
“There was a culture barrier, and people were afraid to talk,“ said Trang Q. Nguyen, a Southern California consultant to Vietnamese-language media.
Some of those people — whether in San Francisco or Houston, San Jose or Virginia — were afraid not of the police but of the Front finding out they had talked to the police.
Doan Van Toai, a writer and activist, was shot in the face in 1989 in Fresno, California. The shooter has never been caught, and Toai has rarely spoken publicly about his case. But in a recent interview with ProPublica and Frontline, Toai said the authorities were completely unprepared to investigate his case and others like it. That said, he understood what they were up against.
Of people in the Vietnamese community, Toai said, “They never cooperate.”
Still, Lam’s murder came early in the Front’s violent campaign, and its investigation seems to have lacked the most fundamental kind of effort. His friends and relatives had spoken of telephoned threats to Lam, and later of calls to his family from people claiming to have killed him. There’s no evidence in the case files that detectives even examined Lam’s phone records, or those of his sister.
Several weeks after the killing, San Francisco detectives received a handwritten note identifying a suspect, complete with name, address and telephone number. The suspect was described as a former South Vietnamese police official who had conducted interrogations of suspected Communists back in Saigon. The note said the man was now a member of a militant anti-Communist organization: the Front.
The San Francisco detectives had the message translated into English. But they never followed up on the lead. In a homicide case file running hundreds of pages, there is no sign the detectives ever interviewed the man identified in the handwritten note.
ProPublica and Frontline located the man in San Jose and interviewed him. He said it was true that he’d once been a police officer in Saigon. But he insisted that he wasn’t involved with the Front and hadn’t killed Lam.
Asked if he had ever spoken to the San Francisco police about the killing, he answered quickly: “No.” He said he had spoken briefly with FBI agents some 15 years after the murder.
Whether or not the man was connected to Lam’s murder, the fact that the authorities left the lead completely unexplored for so long gnaws at Lam’s family and friends.

Lam’s supporters eventually began beseeching the FBI and federal prosecutors to get involved. They insisted that not only was Lam’s murder political, but that a spate of violent acts had been carried out against others open to a nonviolent relationship with Communist Vietnam. Ultimately, they wrote directly to Joseph Russoniello, then the U.S. attorney in San Francisco, saying the case had been “bungled” by the San Francisco detectives “who refused to investigate potential political motives for the murder.”
Russoniello was moved to send a note to the FBI, asking if there was any reason to believe the killing of Lam was a terrorist act. A senior FBI agent came to his office to assure him there was not.
The FBI stuck to that conclusion even after more journalists were killed in what appeared to be political assassinations. When magazine publisher Pham Van Tap was murdered in Southern California in 1987, federal agents in Los Angeles saw a similarity between his murder and that of Lam. Theyreached out to their colleagues in San Francisco, asking for their files on Lam’s killing.
“SFPD and FBI investigations determined that Lam’s murder was for personal reasons and that there was a lack of evidence suggesting any political motivation,” an investigator in San Francisco wrote back. Drafted by a member of an FBI anti-terror squad, the memo was marked “secret” and sent in December 1987. The FBI redacted the name of the agent before declassifying the document and releasing it to ProPublica and Frontline.
Today, Nancy Duong keeps a black-and-white photo of her brother next to a small Buddhist altar. In the picture, Lam is young and smiling.
“I don’t know what happened to my brother,” she said, “even now.”
If the FBI was stymied in solving individual crimes it suspected were committed by the Front, there was another way the agency could have built a case against the group.
The U.S. Neutrality Act makes it a federal crime for any U.S. citizen or resident to financially support or take part in “any military or naval expedition” against a state “with whom the United States is at peace.”
The Front never tried very hard to hide the fact that it was engaging in conduct that violated the act.
It held public events in cities across the country, imploring attendees to donate money to its war effort. Photos of “resistance rallies” in Santa Ana, California, Los Angeles and Washington, D.C., show giant crowds gathered to support the cause. The FBI found that the Front ran ads in the Vietnamese-American press directly linking donations to weapons; writing a check to the organization, the ads promised, would allow it to purchase arms such as assault rifles and shoulder-fired rockets.
And then there was the military base the group established in Thailand, from which it would try to invade Vietnam. Photographs and film clips of the training at the camp were used to raise more money, and one clip was featured in a story about the Front’s military ambitions broadcast nationally on CBS television.

But a review of thousands of pages of FBI investigative files, as well as interviews with former agents and prosecutors, turns up no serious discussion of making a Neutrality Act case — even after the FBI came to suspect the Front of carrying out assassinations on American soil.
ProPublica and Frontline asked the FBI and the U.S. attorney in San Francisco why the Front had never been prosecuted for raising money with the aim of toppling the government of Vietnam. Neither provided an answer.
Tang-Wilcox, one of the top agents on the Front investigation, said she did not think making such a case would have been feasible given the politics of the 1980s.
At the time, the U.S. had committed to what became known as the Reagan Doctrine, under which America would support armed anti-Communist movements. The U.S. was backing rebels fighting the Soviets in Afghanistan, a proxy army in the Angolan civil war and, infamously, the Contras fighting in Nicaragua.
Eugene Kontorovich, a professor at the Northwestern University School of Law who has written widely on the Neutrality Act, said he was not surprised no case was made against the Front. Neutrality Act prosecutions are extremely rare, he said, even when individuals and groups are clearly violating “the core of what the act prohibits.” The rarity of such cases, he said, could leave any effort to bring one open to allegations of selective prosecution.
On Neutrality Act cases, Kontorovich said, “no prosecutor is eager to be a pioneer.”
Though federal prosecutors did not act on evidence that the Front was violating the Neutrality Act, records and interviews show an array of federal agencies — the State Department, the CIA, the Department of Defense — were well aware of the group’s activities and aims.
In fact, Hoang Co Minh, the Front’s leader and the man who oversaw the group’s training camp in Thailand, at one point met with a State Department official in Bangkok to discuss his plans for invading Vietnam, according to an interview with a retired State Department employee and the memoir of a former Front leader.
But the man the Front counted as its most important contact in the American government was Richard Armitage.
Armitage was a man with a long and deep history in Vietnam. He served as an officer in the U.S. Navy during the war, and met and befriended Minh in the 1970s. Armitage was later tasked with assisting the evacuation of the South Vietnamese Navy and its officers as the fall of Saigon loomed. Armitage went on to serve as a senior official in the Department of Defense in the Reagan administration, overseeing policy for Southeast Asia. He also served as a deputy secretary of state for George W. Bush.
The FBI interviewed Armitage during its investigation of the Front. The substance of that 1991 interview was written up in a formal debriefing memo, known in FBI parlance as a 302 document. Armitage told the FBI that he had stayed friends with Minh for years after his arrival in the U.S. in 1975. He also told the FBI that he believed the Front to be capable of political assassinations, and that he had heard rumors that the Front was indeed carrying out such killings in the U.S.

Armitage would not agree to an interview with ProPublica and Frontline. But he did respond to written questions. Armitage wrote that he had considered Minh “one of the finest officers” he’d met in Vietnam. He confirmed that he had told the FBI about the rumors of the Front killing people in the U.S., and acknowledged that he had not informed anyone in law enforcement about those rumors prior to the 1991 interview.
Armitage told ProPublica and Frontline that he had considered Minh’s idea of invading Vietnam “a fool’s errand.” But, Armitage said, he had been of some assistance to Minh when the guerilla commander was setting up his camp in Thailand: Armitage said he had vouched for Minh to his Thai counterparts.
ProPublica and Frontline found no evidence that any U.S. government agency financed the Front. Indeed, Armitage wrote that he had made clear to Thai officials that there was no formal program for the U.S. to provide support for Minh’s military aims.
Still, Armitage’s help seems to have paid off: A Thai general named Sutsai Hatsadin became the Front’s patron, allowing Minh to set up his guerrilla base on a remote parcel of heavily forested land in Northeast Thailand, not far from the Mekong River and the border with Laos.
Located atop a hill, Minh’s base was a grueling six-hour hike from the nearest village. In time, he and his followers cleared trees and built a collection of rudimentary wooden structures. He drew a few hundred men to the encampment, training them in guerrilla tactics and equipping them with small arms and fatigues.
A declassified 1984 CIA cable says Minh and his troops were funded by money contributed by Vietnamese refugees as well as “modest clandestine support from ‘certain elements’ of the Royal Thai Army.” Money raised by the Front in the U.S. was at times transported to Thailand by courier.

The group’s fundraising had allowed it to buy a variety of light combat weapons, including AK-47 and M16 rifles and M72 anti-tank rockets, according to interviews with Front members as well as other anti-Communist combatants in the area at the time. Minh’s plan was to move east, crossing the Mekong and trekking over the breadth of Laos before stealing into Vietnam.
After a long truck ride over a series of slippery mud roads through the Thai countryside, ProPublica and Frontline found one of Minh’s old Laotian allies living in a rural farming hamlet. The man said Minh was brutal about punishing those who lost heart for the mission. The Laotian fighter, as well as five men who had joined the Front and traveled to the camp in Thailand, said that Minh had executed as many as 10 of his own soldiers for insubordination or lack of devotion. It is possible one or more of them were U.S. citizens.
The FBI had received at least one report of killings in the camp. A Front member escaped in 1986 and contacted the bureau in Honolulu, telling agents that two recruits had been murdered at the camp. It is not clear what the FBI did with the information.
The indictment announced on April 10, 1991 by federal prosecutors in San Jose seemed like the break that could finally end the Front’s terror campaign. Five Front officials were charged with taking tens of thousands of dollars raised for the war effort overseas for their personal use, and then not paying taxes on that money.
“The diverted donations constituted income to the defendants, which they failed to report or account for to the Internal Revenue Service,” read the charging sheet.
Two of the defendants faced up to 20 years in prison. Another was looking at 15.
Doug Zwemke, a former San Jose police sergeant who helped federal prosecutors build the tax case, said he was convinced it would eventually get the defendants to “roll,” providing information about the Front’s violence against journalists and others in exchange for lighter sentences.

“To err is human,” Zwemke said, “to snitch is divine.”
“So you would have rolled them, and they would have gone,” Zwemke said. “And then you would start filling in the organization chart.”
Quite possibly, he said, the authorities could have gotten information on, and then indictments of, “the hitters, the murderers.”
“It could have opened a lot of doors,” said Zwemke.
The case was years in the making, and it had begun with a tip from one of Zwemke’s informants in San Jose, a hub for Vietnamese Americans.
Working with the FBI and Zwemke, agents for the IRS painstakingly traced money as it moved through a tangle of Front-controlled bank accounts and businesses between 1984 and 1987. Funds poured into Front bank accounts in California from donors all over the world. The group transferred large sums to Bangkok, presumably for the use of the soldiers in Thailand. But some of the money allegedly wound up in the personal accounts of top Front personnel, including Minh’s brother, Hoang Co Dinh, who used three aliases. (Dinh refused to talk about the case with ProPublica and Frontline.)
The indicted Front members insisted they were innocent.
As part of their defense, their lawyers argued that the Front members were immune from prosecution because they had struck a secret deal with the CIA and the Department of Defense. In exchange for their help in locating American prisoners of war in Vietnam, the agencies had given the Front permission to do as it wished with the money raised in America.

Prosecutors scoffed at the claim. One defense lawyer, interviewed recently, insisted there was evidence to substantiate the men’s assertion, but the lawyer would neither disclose nor discuss it.
ProPublica and Frontline sought to obtain the entire case file to reconstruct what happened. Surprisingly, staff at the federal courthouses in San Jose and San Francisco said the file had been lost, and the Federal Records Center, which archives old court records, was also unable locate the documents.
The office of the current U.S. attorney in San Francisco would not discuss the case. The Department of Defense and CIA also both refused to talk about the Front.
The few court records that have survived, as well as interviews with some of those involved, show the case came to a sudden, anticlimactic end.
On January 4, 1995, some four years after the indictments had been announced, U.S. District Judge James Ware held a hearing on a motion made by lawyers for the Front members. The lawyers argued that their clients had been denied their right to a speedy trial. The judge, embarrassed, conceded that they were right, and dismissed the case.
Zwemke said he heard about the dismissal in a phone call from the prosecutor’s office. The assistant U.S. attorney said little more than, “Sorry, I wasn’t watching the clock,” Zwemke recalled.
“You got to be kidding me.”
Prosecutors determined they could not refile the charges — many of the alleged offenses had occurred a decade earlier and law enforcement officials said the legal window for bringing a new case had expired. Investigators concluded that finding newer evidence would be difficult, as the Front had improved its bookkeeping.
“They had started being careful about what they were doing, so that paper trail that had been there before, now was not going to be there,” said Tang-Wilcox, the former FBI agent.
The moment she had waited for, a case that might crack the Front, “was gone,” she said.

Retired San Jose Police Sergeant Doug Zwemke, who helped build the tax case against the Front, learned it had been dismissed in a phone call from a federal prosecutor. (Courtesy of Frontline)
Zwemke was devastated. Among other things, the informant who had first brought him the tip had been killed in the course of the investigation.
“Whether he was murdered for helping me or because of the Front,” Zwemke said, “the murderer has never been caught.”
News of the case’s dismissal “sent shock waves” through a Vietnamese-American community already skeptical about how much priority U.S. law enforcement put on investigating the Front’s violence, according to an FBI memo. The bureau concluded that the outcome — on “a technicality in the law” — had only deepened cynicism among Vietnamese Americans.
Later in 1995, Louis Freeh, then the director of the FBI, visited the San Francisco office, where Tang-Wilcox had been grinding along in her pursuit of the Front.
For years, often working solo, she had pulled together a mountain of files from agents across the country, and had scoured them for ways to connect the group to more than two dozen criminal acts.
Finally given an audience with Freeh, Tang-Wilcox said she made a direct plea to him in front of other agents: Either give me the resources to pursue this case or shut it down.
Nearly 15 years after Lam’s murder gave an early intimation of the Front’s tactics, Freeh decided to make the group a priority. The investigation was formally declared a “major case” on organized crime and domestic terrorism grounds, a move that brought it additional agents.
Teamed with roughly half a dozen agents, Tang-Wilcox did considerable work. She traveled to France to interview a writer who had been beaten into a coma in Orange County’s Little Saigon in 1988. Her colleagues in the Washington, D.C., area conducted some 200 interviews on the murders of Le Triet and Do Trong Nhan, slain colleagues at Tien Phong magazine.The bureau’s crime lab re-examined forensic evidence collected years before by local police in different jurisdictions; in the case of Lam, for example, the agents tried to match the bullet pulled from his body to firearms in an FBI database.
The bureau code-named the investigation VOECRN, for the Vietnamese Organization to Exterminate Communists and Restore the Nation. Investigators believed the Front used the name to take credit for terror acts and killings that it carried out. The files contain offers by people to work as informants; there are lists of those suspected of being “assassins,” making clear agents believed the Front had a death squad, one known as “K-9.” There are Front organization charts, as well.

Katherine Tang-Wilcox was one of the lead investigators in the FBI's pursuit of the Front. (Courtesy of Frontline)
The files — from both before and after the investigation was made a major case — also capture the agents’ mix of occasional optimism and consistent frustration. In one memo, an agent lamented the “overwhelming complexity” of the investigation. Part of that complexity owed to the fact that there was violence being committed in Vietnamese-American communities by gangs and extortionists. Any individual act of violence, the agents wrote, could have multiple explanations. And then there was what one memo called the “inherent distrust of law enforcement and government” among Vietnamese Americans.
Internally, agents acknowledged one looming price for failing to solve these crimes. A note written by an agent in Los Angeles in 1991 warnedsuperiors about the risks of prematurely closing the investigation.
“The FBI would have to be prepared to answer questions either now or in the future from congressmen and Vietnamese lobbyists as to why the investigation was closed,” the agent wrote. Among other things, the agent wrote, the FBI would have to explain how after so many years it had failed to infiltrate the top ranks of the Front.
Interviews with former agents and prosecutors who worked on the case suggest that despite the infusion of resources in 1995, many agents regarded it as a bastard child within the FBI. One retired agent who worked on the probe described it as a “wild goose chase” propelled by nothing but “conspiracy theories.” Another former agent voiced disdain for the victims, saying their decisions to be outspoken about controversial issues rendered them undeserving of sympathy.More than one former agent criticized Tang-Wilcox’s leadership, suggesting she was in over her head.
“It wasn’t something every agent wanted to take on,” Tang-Wilcox acknowledged.
By contrast, agents were eager to join the hunt for the Unabomber, the anarchist who authored a 35,000-word anti-technology manifesto and mailed explosives to airline executives, academics, and others. The task force searching for the serial bomber — he killed three and injured 24 — swelled to over 150 full-time personnel, many of them based in the San Francisco office. Thanks to a tip from the killer’s brother, the FBI captured him in 1996.
The years it took federal agents to fully recognize the political nature of the violence against Vietnamese-American journalists were costly.
ProPublicaand Frontline’s examination shows that in 1995, when the FBI finally went to pull together the 30 death threats and claims of credit that agents suspected had been issued by the Front, it realized that 19 of the original documents had either never been collected or been destroyed or lost.
And while FBI records show agents subpoenaed phone records on some 80 people, Tang-Wilcox said the bureau never developed enough detailed information to get a judge to approve a wire-tap. Such setbacks, agents and prosecutors acknowledge, help explain why, even though federal grand juries were convened in the Bay area in the 1980s and again in the 1990s, no indictments related to the violence were handed up.
Johnny Nguyen appeared before one of those grand juries. In the 1980s and early 1990s, according to the FBI, Johnny Nguyen owned a convenience store in Houston and worked in some capacity at a local law firm. He was known around Houston as a successful businessman. He was also a former sergeant in the South Vietnamese infantry and a proud member of the Front. To this day, he says he worships the Front’s founder, Hoang Co Minh.
The FBI, with the help of the Houston Police Department, sought to develop as much information as possible on Johnny Nguyen. One informant told agents that as “chief assassin for the Front’s K-9 group,” Johnny Nguyen had killed Đạm Phong, the Houston newspaper publisher, “because he published articles which criticized the Front and its activities.” Other informants, the records show, backed that theory, including a former member of the Front.
Much about the nature of Johnny Nguyen’s grand jury appearance is unknown. The former agents and prosecutors are barred by law from discussing it. But Johnny Nguyen freely admits he testified, and he takes the lack of charges as evidence of his innocence.
After months of searching, ProPublica and Frontline found Johnny Nguyen, now in his 70s, wearing a dark suit at an annual memorial service in Houston for Hoang Co Minh. He said he never knew Đạm Phong, much less harmed him. He flatly denied that he was ever a member of K-9.
“Police bullshit,” he said.
Asked if the Front had ever been involved in violence against its critics, Johnny Nguyen said, in both Vietnamese and English, “Never.”

Johnny Nguyen said the FBI's suspicions that he was a Front assassin are "police bullshit." (Courtesy of Frontline)
Johnny Nguyen is a proud man. These days, he runs a driving school. And while he acknowledged he needed to renew his own license, he was intent on demonstrating he was no enfeebled senior. At one point, he took off his jacket and shirt and showed off his biceps.
Of those who thought him capable of murder, he said, “I told them, ‘Okay, go and tell the FBI that I’m the K-9. Tell the FBI to lock me up.’ I told them, ‘No proof. No evidence.’ “
“They quiet.”
The FBI’s renewed push to crack the Front in 1995 lasted a couple of years. The bureau would not say when exactly the domestic terror case was formally closed. But the statement the FBI provided in response to our detailed questions about their inquiry could well have been issued 20 years ago:
“These cases were led by experienced FBI professionals who collected evidence and conducted numerous interviews while working closely with Department of Justice attorneys to identify those responsible for the crimes and seek justice for the victims. Despite those efforts, after 15 years of investigation, DOJ and FBI officials concluded that thus far, there isinsufficient evidence to pursue prosecution.”
In her interview with ProPublica and Frontline, Tang-Wilcox went further. She expressed regret.
“I do feel badly,” she said. “I was never able to bring someone to justice, to bring closure to those victims’ families.”
With the closing of the federal investigation, the homicide cases — Le Triet and Do Trong Nhan in Virginia, Pham Van Tap in Garden Grove, California, Nguyễn Đạm Phong in Houston and Duong Trong Lam in San Francisco — were returned to the local police, allowing them to keep hunting for the killers if they so desired.
There doesn’t seem to have been much appetite at the local level to continue the investigations.After months of trying to meet with cold case detectives at the San Francisco Police Department about Duong Trong Lam’s killing, ProPublica and Frontline recently got a call.
The detectives couldn’t talk about the case. They said they had just fished the files out of the archives and started reading them.

(continue)



$pageOut
$pageIn

Phần III


Lưu Vong lần thứ hai


Phần 4 tức Part III: Lưu Vong lần thứ hai (A Second Exile) chúng tôi đang chờ trang ProPublica post bài xong sẽ dịch tiếp hầu bạn đọc.

Updated Dec. 3, 2015: xin đọc tiếp ở đây: Phần III tức “Lưu Vong lần thứ hai”

$pageOut

Xin đọc các Phần tiếp theo ==>


-

0 nhận xét:

Post a Comment