nguồn Việt Báo 30/9/2015, Người Việt - Monday, September 28, 2015 - TV PVT tổng hợp
Nhà văn Võ Phiến qua đời, thọ 90 tuổi
Người Việt, Monday, September 28, 2015
WESTMINSTER (NV) - Theo tin từ gia đình, nhà văn Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi.
Qua điện đàm, bà Võ Phiến cho tòa soạn Người Việt biết thời gian gần đây nhà văn Võ Phiến yếu dần theo tuổi già, đã qua vài lần vào bệnh viện, và cách đây mấy ngày đã được đưa về một Rehab Center để tĩnh dưỡng.
Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông).
Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học.
Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết:
Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...;
về tùy bút, tạp bút:
Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v...
Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.
Gia đình cho biết thi hài nhà văn Võ Phiến sẽ được quàn tại Peek Family, chương trình tang lễ sẽ được thông báo sau. (P.X.Đ)
by Nguyễn Ngọc Bích Việt Báo 30/9/2015
Một nhà văn lớn, một ngôi sao sáng trong vườn văn-học Việt-nam vừa mới ra đi.
Hôm qua, trong lúc tôi đang lái xe trên đường từ Maryland về thì anh Bùi Bảo Trúc kêu tôi từ Quận Cam nói: “Anh Bích ơi, anh Võ Phiến chắc sắp ra đi rồi. Chị Võ Phiến đã mời Thầy Viên Lý đến tụng kinh cho anh và gia-đình đoán là bất cứ giờ nào anh ấy có thể sẽ quy tiên.” Quả như rằng, đến 7 giờ tối thứ Hai, 28 tháng 9, 2015, nhà văn Võ Phiến, một cây bút hàng đầu của Việt-nam tự do và của cộng-đồng hải-ngoại, đã trút hơi thở cuối cùng.
Không bất ngờ
Sự ra đi của ông không phải là một chuyện bất ngờ. Từ nhiều năm nay, ông đã phải ngừng viết vì chứng bệnh Alzheimer của tuổi già, lúc nhớ lúc quên. Nhà văn Trùng Dương, cách đây hơn 5 năm, đã đến thăm ông bà Võ Phiến, kể:
“Buổi viếng thăm anh chị lần này đã để lại trong tôi một xúc động mãnh liệt… Đến nơi lúc 11 giờ đã thấy chị đứng sẵn ở cổng bên mấy bụi hoa hồng chờ khi tôi lái xe vào khoảng sân trước nhà để xe (nay đã biến thành kho chứa sách vì đã nhiều năm anh chị không lái xe). Bước vào nhà đã thấy anh áo quần tề chỉnh, cả đội mũ nữa, chắc cho ấm đầu, với mái tóc trắng còn lưa thưa, đang chờ khách. Tôi cảm động lắm, vì rõ ràng là anh chi đang ngóng chờ khách phương xa.”
Kinh-nghiệm này hoàn-toàn ăn khớp với hình ảnh vợ chồng tôi có mỗi khi có dịp sang Quận Cam và đến thăm anh chị Võ Phiến. Vẫn một sự hiếu khách và ân cần săn đón niềm nở dành cho một người chỉ đáng tuổi em mình, vẫn một sự tò mò hỏi han về công việc văn-học của khách (khác hẳn nhiều người gặp khách chỉ kể về mình).
Tôi còn giữ được không ít những lá thư anh viết cho tôi, khuyến khích tôi trên mỗi chặng đường nghiên cứu của tôi. Như năm 1983, vợ chồng tôi có viết chung một tiểu-phẩm mang tên Những địa-tầng ngôn ngữ trong lịch-sử tiếng Việt được cụ Nguyễn Khắc Kham khen, trong khi anh Võ Phiến thì vui hẳn:
“Bản Tin Văn Hóa của Cung Tiến ở Minnesota liên tiếp mấy kỳ đăng loạt bài về ngữ học của Anh, đọc thích ơi là thích. Không dám khen các tác giả về kiến thức rộng…, tôi lấy làm thích thú đặc biệt là những suy tìm, nghĩ ngợi, nhận xét rất thâm thúy và tinh tế… Tôi ngờ những bài này ở trong một cuốn sách, cắt đăng từng kỳ báo chậm quá, người đọc phải chờ đợi lâu quá. Anh có dự tính nào về việc in cuốn này chăng? Nếu có xin Anh báo tin cho tôi biết với. Tôi chắc ở vùng Nam Cali này có nhiều người muốn mua đấy.”
Rồi anh kết-luận thật dí dỏm:
“Lâu quá tôi ít thư từ cho ai, không có thư thăm Anh, nhưng mới nhận được Bản Tin Văn Hóa mới hôm qua, khoái quá, không thể không ba hoa với Anh vài lời.” (Thư từ Los đề ngày 20 tháng 9 năm 1983)
Lần khác, anh nhận-định chung về tình-hình nghiên cứu ở hải-ngoại: “Tình hình biên khảo về văn học VN do người Việt hải ngoại lâu nay khá bi quan. Từ sau cụ Hoàng Xuân Hãn, thường thường không mấy ai phát giác ra cái gì mới mà chỉ tổng kết những thành quả khảo cứu của các học giả trong nước. Vì vậy khi được đọc những bài của Anh với những phát giác mới, những bài khảo cứu có tinh thần sáng tạo, tôi thật khoái và thêm tin tưởng ở hoạt động văn hóa của bà con hải ngoại chúng ta.” (Thư đề ngày 7 tháng 12, 1983)
Sang đầu năm 1984, anh lại viết cho tôi về hai chữ Nôm nhức óc mà cho đến gần đây chưa mấy ai đọc được cho chính-xác:
“Vụ ‘song viết’ tôi cũng nghĩ là anh thắng, các nhà nghiên cứu ngoài Bắc thua… Nhân dịp Đào Duy Anh bị ‘chôn’ sống [ở ngoài Bắc], tôi có ý kiến là anh nên tìm cách phổ biến bài nghiên cứu của anh càng rộng càng hay. Đề phòng một ngày kia, Hà nội dùng ngay những phát giác của anh mà tỉnh bơ không nhắc tới tên anh. Lúc bấy giờ mình lấy những tờ báo đã đăng bài của anh ra làm bằng chứng” (Thư đề ngày 25 tháng 1, 1984) mà tố-cáo sự gian lận của họ.
Sở dĩ tôi hơi dông dài nhắc về một vài kỷ-niệm của tôi (cái tôi đáng ghét) với anh Võ Phiến như trên đây là để thấy là như một người đàn anh trong văn-đàn, anh lúc nào cũng ưu ái theo dõi công việc của người khác mà anh coi như đồng-nghiệp chứ không phải đòi ăn trên ngồi trốc như một ông tiên-chỉ trong làng văn. Đó là một đặc-điểm của cái mà nhà văn Mai Thảo gọi là “cộng-hòa chữ nghĩa” (“la République des lettres” nói theo kiểu Pháp) trong đó chỉ có anh em chứ không có ai chiếu trên, ai chiếu dưới—một điểm đặc-thù của văn-học miền Nam và của hải-ngoại.
Một tổng-tác-phẩm đồ sộ
Sinh năm 1925 ở Bình-định, ông có tên thật là Đoàn Thế Nhơn nhưng lấy tên vợ, Viễn Phố, đảo lại thành bút-hiệu Võ Phiến—một ý-tưởng vừa ngộ nghĩnh vừa đáng yêu. Bắt đầu viết từ rất sớm (1943 trên Trung Bắc Tân Văn), tham-gia kháng-chiến xong bỏ về thành, cùng với một số bạn ra tạp-chí văn-học Mùa Lúa Mới ở miền Trung. Thời-gian trước năm 1975 vì làm trong ngành kiểm duyệt của Bộ Thông tin nên có dịp theo dõi rất sát sinh-hoạt văn-học của miền Nam. Nhờ những hiểu biết này mà về cuối đời, ông đã viết được ra một cuốn văn-học-sử rất giá trị mang tên Văn học Miền Nam: Tổng Quan (Văn Nghệ, 1987, đã được Võ Đình dịch sang tiếng Anh và G.S. Nguyễn Xuân Thu xuất bản ở Úc) và dựa vào quyển này ông lại thu thập và tuyển chọn được một bộ hợp-tuyển “Văn học miền Nam” gồm 7 quyển, trong đó có ba quyển giới-thiệu Truyện dài và truyện ngắn, một quyển dành cho Ký, một quyển dành cho Kịch và Tùy bút, và một quyển dành cho Thơ (tất cả đều do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Võ Thắng Tiết in ra).
Bên cạnh đó nhà xuất bản Văn Nghệ cũng in ra Toàn Tập Võ Phiến gồm Tùy bút (I và II), Tạp Luận, Tiểu Luận, Truyện ngắn (I và II), Tiểu thuyết (I và II), Tạp Bút. Tóm lại, một tổng-tác-phẩm rất đồ sộ.
Sau này, nhà xuất bản Người Việt cũng lại cho in một Tuyển tập Võ Phiến bìa dầy rất trang trọng.
Trong những tác-phẩm của ông mà được người ta nhắc đến nhiều có: các tiểu-thuyết Mưa Đêm Cuối Năm (Giải văn chương toàn-quốc 1960), Giã từ (Bách Khoa, 1962), Một mình (Thời Mới, 1965), Đàn ông (Thời Mới, 1966), và các tập truyện ngắn Chữ tình (Bình Minh, 1956), Người tù (Qui Nhơn, 1957), Mưa đêm cuối năm (Tự Do, 1958), Đêm xuân trăng sáng (Nguyễn Đình Vượng, 1961), Thương hoài ngàn năm (Bút Nghiên, 1962), Ảo Ảnh (1967), Phù Thế (1969), chưa kể ông còn có một số tác-phẩm dịch (Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà dịch Stefan Zweig, Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại dịch André Maurois, Truyện hay các nước I và II, dịch với Nguyễn Minh Hoàng, và Ông chồng muôn thuở dịch Dostoyevsky).
Đặc-biệt mê Võ Phiến thì có Võ Đình (có lần anh tả cho tôi cái óc quan-sát đặc-biệt tinh tế về một con ruồi của Võ Phiến trong truyện “Một ngày để tùy nghi”), Thụy Khuê cũng đã viết một thiên khảo cứu về Võ Phiến trên Hợp Lưu số 103 (tháng 12/2008) và Nguyễn Hưng Quốc đã có nguyên một cuốn sách dài viết về Võ Phiến (1996). Một giáo-sư người Mỹ, ông John C. Schafer, cách đây gần 10 năm cũng đã có Võ Phiến and the Sadness of Exile (“Võ Phiến và nỗi buồn lưu vong”), một cuốn chuyên-đề do Northern Illinois University in ra (Monograph Series on Southeast Asia, 2006).
Tỵ nạn sang Mỹ, ông bắt đầu viết lại với Thư Gửi Bạn (1976), rồi Lại Thư Gửi Bạn (1978), Ly Hương (1977, viết chung với Lê Tất Điều) và truyện dài Nguyên Vẹn (1978, đã được James Banerian dịch sang tiếng Anh). Tiểu-luận của ông viết ở Mỹ đã được Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Sanh Thông dịch sang tiếng Anh và truyện ngắn của ông (do Võ Đình, Phan Phan, và Huỳnh Sanh Thông dịch) cũng đã được đưa vào sách Landscape and Exile (Marguerite Bouvard, ed., Boston: Rowan Tree Press, 1985). Sang thập niên 1990, ông còn có thêm các tác-phẩm Truyện thật ngắn (1991), Quê (1992), Viết (1993), Đối Thoại (1993), Sống và Viết (1996), và Thơ Thẩn (1997), tất cả cũng do nhà xuất bản Văn Nghệ ở Cali in ra.
Không chỉ viết, ông là một trong những cây bút cột trụ của báo Bách Khoa trước năm 1975, ông còn lập ra nhà xuất bản Thời Mới để in sách của mình và của những tác-giả trẻ mà ông tin tưởng là có tương-lai nên muốn giới-thiệu với công-chúng.
Lăng-xê các cây bút trẻ
Một vài người ác-ý cho rằng Võ Phiến chỉ thích giúp và giới-thiệu các cây bút nữ ra với công-chúng. Nhưng theo Hồ Trường An, viết trong sách Cảo thơm lần giở (Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ xb, 2015), nhà xuất bản Thời Mới của ông, ngoài sách của chính Võ Phiến, còn in sách của Võ Hồng, Lê Tất Điều, Thế Uyên, Y Uyên, Đỗ Tấn bên cạnh Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ… Ngoài ra, tuy không in tác-phẩm của họ, ông Võ Phiến vẫn làm cho công-chúng chú ý đến Hoàng Ngọc Tuấn, Trùng Dương…
.
Sang Mỹ, Võ Phiến là một trong những người đầu tiên cầm bút trở lại mặc dù ông thừa biết là nhà văn mà mất đi độc-chúng thì cũng như cá bị ném lên trên cạn. Mặc dầu vậy, ông vẫn viết và cho rằng chỉ cần còn bạn tri kỷ là còn “thư gửi bạn” được. Ông tin tưởng đủ ở văn-học Việt-nam hải-ngoại để cùng Nguyễn Mộng Giác lập ra một trong những tạp-chí văn-học đầu tiên ở xứ người, tờ Văn Học Nghệ Thuật, sau này trở thành tờ Văn Học (do Nguyễn Mộng Giác chủ-trì một thời-gian dài).
Mô-tả cách viết của Võ Phiến, Trùng Dương nói khá chính-xác:
“Mặc thời đại vi tính với Internet, anh vẫn viết tay. Tôi còn nhớ có lần nghe anh nói anh phải cảm ơn thấy da thịt của tay mình tiếp xúc với mặt giấy mới yên tâm sáng tác được, hay một ý tưởng tương tự. Tôi hình dung mặt tờ giấy đối với anh có lẽ cũng giống như cái ‘security blanket’ đối với nhiều trẻ nhỏ. Nhưng từ vài năm nay anh không viết nữa. Một đời gắn liền với chữ nghĩa bỗng như hụt hẫng, thừa, chị nói với riêng tôi, nước mắt ứa ra. Anh không biết tại sao mình sống lâu như vậy. Tôi vỗ về cánh tay trái mới té gãy và còn băng bột của chị. Chị rất sợ lỡ phải ‘đi’ trước anh, vì không biết ai sẽ chăm sóc anh được như chị chăm sóc anh. Chị không muốn con cái phải bận tâm nhiều về cha mẹ già. Hôm chị té gẫy tay, mãi sau khi đi bác sĩ băng bó xong, đến tối mấy người con mới hay…
“Tôi ra về, trong đầu lởn vởn ba câu thơ của anh làm năm 1986, mà chị đọc cho tôi nghe trước đó. Tôi đã hỏi chị ‘sao chỉ có ba câu, thay vì bốn?’ Chị đáp, ‘ai mà biết, cô hỏi tác giả xem.’ Tôi đáp, nhìn sang cửa phòng đã khép, ‘thôi để anh nghỉ.’ Tôi xin phép về, cũng để chị nghỉ nữa. Tôi nghĩ với riêng mình, có những điều tốt hơn không cần giải thích.
Vả, tôi nghĩ là tôi hiểu vì sao bài thơ chỉ có ba câu:
Ra đi, tuổi chẳng năm mươi.
Năm mươi tuổi nữa, nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê…”
Gs Nguyễn Ngọc Bích
Lời tòa soạn: Nhà văn Võ Phiến vừa qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 Tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, thành phố Santa Ana, California, thọ 90 tuổi. Trong niềm tiếc thương một nhà văn lớn của miền Nam Việt Nam ở thế kỷ 20, Nhật báo Người Việt gởi đến quý độc giả bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh, như một nén hương lòng gởi đến người đã khuất.
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến 28-10-1998]
Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã Từ, Lại Thư Nhà, Một Mình...
Rồi qua người bạn tấm cám Nghiêu Ðề, qua tòa soạn Bách Khoa, tôi quen ông từ những năm trước 1960 cho tới khi ra hải ngoại về sau này.
Võ Phiến Bắt Trẻ Ðồng Xanh
Võ Phiến viết Bắt Trẻ Ðồng Xanh, đăng trên Bách Khoa Tháng Mười năm 1968, tựa đề từ cuốn sách dịch của Phùng Khánh Phùng Thăng The Catcher in the Rye của nhà văn Mỹ J.D. Salinger, nhưng nội dung bài viết thì lại nói về kế hoạch cộng sản miền Bắc đưa trẻ em từ trong Nam ra Bắc huấn luyện rồi sau đó đưa trở về miền Nam. Cộng sản cũng đã làm như vậy sau khi ký Hiệp Ðịnh Geneve 1954. Võ Phiến viết:
“...trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước Cộng Sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc... họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh...”
“Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa xẩy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở.” (Võ Phiến, Bắt Trẻ Ðồng Xanh, Bách Khoa 10/1968)
Bắt Trẻ Ðồng Xanh hoàn toàn không phải là tùy bút hay truyện ngắn mà là một bài chính luận, một bạch thư tố cáo dã tâm của người Cộng Sản Việt Nam, chưa bao giờ thực sự muốn có hòa bình, nếu có hòa đàm thì đó chỉ là bước hoãn binh chiến lược, họ vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác. Bài viết như một tiên tri, một báo động đã thực sự gây chấn động dư luận bên trong cũng như ngoài nước, với cái giá Võ Phiến phải trả là bị Việt Cộng lên án, và cả hăm dọa tính mạng tiếp sau cái chết của ký giả Từ Chung tổng thư ký báo Chính Luận, do bị đặc công CSVN ám sát. Theo Lê Tất Ðiều, đã có lúc Võ Phiến nghĩ tới tạm lánh xuống vùng Hòa Hảo, một khu được coi là miễn nhiễm với mọi xâm nhập của cộng sản. Ðó cũng là lý do tại sao, Võ Phiến có thời gian làm giáo sư văn chương trường Ðại học Hòa Hảo, Long Xuyên. Trong nghịch cảnh cũng có cái may, nơi đây anh quen một đồng nghiệp trẻ Ðỗ Văn Gia, lúc đó cũng đang dạy bộ môn Triết học Ðông phương. Sau này ra hải ngoại, chính anh Ðỗ Văn Gia trong thời gian làm giảng viên văn học và ngôn ngữ Việt Nam tại Ðại học Cornell từ 1982, đã giúp nhà văn Võ Phiến rất nhiều tư liệu ban đầu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam.
Bánh tráng xứ Nẫu trên đất Mỹ
Từ thập niên 1980, lúc đó hai anh chị Võ Phiến đều là công chức quận hạt Los Angeles, ngôi nhà số 5621 Baltimore St. Highland Park là nơi Võ Phiến đã sống quãng thời gian 23 năm. Nhà có vườn rộng đủ loại cây trái chanh cam bưởi, nhiều nhất là những cây hồng giòn sai trái nặng trĩu cành, có cả bức tượng bán thân của Võ Phiến, tác phẩm điêu khắc của Ưu Ðàm, con trai của họa sĩ Rừng. Trong nhà, ngoài những kệ sách, không có tượng Phật hay tượng Chúa, chỉ có đơn giản một bàn thờ nhỏ cúng gia tiên. Cũng nơi đây, Võ Phiến đã viết một số những tác phẩm tại hải ngoại: bộ Văn Học Miền Nam, Thư Gửi Bạn, Nguyên Vẹn, Truyện Thật Ngắn, Ðối Thoại...
Những lần tới thăm anh Võ Phiến, thường là Thứ Bảy cuối tuần vì khách cũng như chủ nhà còn ở tuổi lao động đi làm. Khách thăm thường đi theo nhóm. Khi thì với Nguyễn Mộng Giác và anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, khi thì với Tạ Chí Ðại Trường, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo; khi thì với anh chị Trần Huy Bích, chị Bích thì rất thân thiết với chị Võ Phiến.
Trùng Dương từng gọi chị Võ Phiến là “người đàn bà đằng sau bộ Văn Học Miền Nam 1954-75.” Nhưng tưởng cũng nên ghi nhận thêm ở đây, một số khuôn mặt bằng hữu khác đã cung cấp các bộ sách tiếng Việt giai đoạn 1954-75 từ các thư viện Ðại học Pháp, Mỹ giúp anh Võ Phiến tư liệu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam. Như Ðặng Tiến từ Âu Châu, Trần Huy Bích qua liên thư viện Ðại Học UCLA, Ðỗ Văn Gia từ Ðại Học Cornell, họa sĩ Võ Ðình và trước đó từ 1983, học giả Huỳnh Sanh Thông từ Ðại Học Yale (dịch giả The Tale of Kiều), là người giới thiệu Võ Phiến xin được grant/ trợ cấp từ Chương Trình Nghiên Cứu Ðông Dương thuộc Ủy Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội Hoa Kỳ (Indochina Studies Program, Social Science Research Council).
Và khách tới thăm thường ở lại ăn trưa với anh chị Võ Phiến. Bữa ăn gia đình do chị Võ Phiến chăm sóc, đôi khi có thêm một hai món khách đem tới. Cho đến nay, có một món chị Võ Phiến cho ăn không thể nào quên, đó là bánh tráng thuần túy Bình Ðịnh nhúng nước, chấm với nước mắm chanh ớt. Chanh thì có sẵn trên cây, chén nước mắm nhỉ đỏ au những lát ớt cũng hái từ vườn nhà. Món ăn giản dị và lạ miệng như vậy mà ai cũng lấy làm ngon, và khách cảm thấy ngon hơn nữa khi chủ nhà dí dỏm liên hệ món bánh tráng xứ Nẫu tới chiến thắng của vua Quang Trung, bánh tráng đã được dùng như lương khô trong cuộc hành quân thần tốc từ Nghệ An tiến ra Thăng Long dẹp tan 20 vạn quân Thanh.
Nói chuyện với Ðặng Tiến 1998
Ngày 11 Tháng Tư 1998, anh Võ Phiến đã gửi cho tôi bản photocopy 3 trang viết tay bài nói chuyện với Ðặng Tiến kèm theo ít dòng ghi chú: “Thưa anh, đây là bản soạn, không phải nguyên văn lời nói. Khi nói có lời Ðặng Tiến xen vào đôi chỗ. Theo lẽ thì phát thanh vào 28-10-1998. Không biết rồi có đúng vậy không.” Thân, Võ Phiến
Ðặng Tiến bút hiệu Nam Chi, cây bút phê bình văn học từ cuối thập niên 1950, là “bạn cựu” của nhà văn Võ Phiến [bạn cựu là chữ của Võ Phiến để chỉ những cố tri], Ðặng Tiến với Võ Phiến như Bá Nha Tử Kỳ, Ðặng Tiến liên tục theo dõi và rất tâm đắc với những thành tựu văn học của Võ Phiến rất sớm từ 1954 tới mãi về sau này, và cũng đã có rất nhiều bài phê bình điểm sách của Võ Phiến.
Riêng tôi, không được nghe buổi phát thanh ấy, nhưng nếu có thì nội dung chắc sẽ không khác với bản gốc viết tay của anh Võ Phiến. Qua anh Phạm Phú Minh, email liên lạc với Ðặng Tiến hiện ở Pháp, anh trả lời là hoàn toàn không nhớ. Tôi không ngạc nhiên vì cũng đã 17 năm qua rồi. Tiếp đó tôi gửi phóng ảnh 3 trang viết tay của Võ Phiến buổi nói chuyện với Ðặng Tiến, với hy vọng anh ấy có thể sẽ nhớ ra và cho tôi biết thêm chi tiết. Nhưng rồi ba ngày sau cũng vẫn Ðặng Tiến trả lời: “Gửi NTV: Tôi không nhớ ra, sẽ moi trí nhớ trả lời anh sau. Giữ liên lạc. ÐT”
Với anh Võ Phiến, câu chuyện 17 năm trước thì không hy vọng gì anh còn nhớ, tôi vẫn ghi lại đây nội dung buổi nói chuyện rất ngắn ấy, với 3 trang viết tay [chỉ có 938 chữ] như một chút tư liệu văn học, có giá trị như một Tổng Quan về Văn Học Miền Nam giai đoạn 1954-75.
“Thưa anh [Ðặng Tiến],
“Cuối thời tiền chiến, ông Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một thời kỳ văn học 30 năm của Việt Nam. Trong mọi bộ môn sáng tác bằng văn xuôi ông chỉ đếm được ba người ở Nam phần và Trung phần (VP ghi chú thêm bằng bút chì bên lề: Hồ Biểu Chánh, Thanh Tịnh, Nguyễn Vỹ). Tất cả đều viết truyện. Về bộ môn kịch, ký, tùy bút... không có ai cả.
“Cuối thời 1954-75, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm riêng về bộ môn tiểu thuyết trong 20 năm ở Miền Nam. Ông bảo số người viết truyện xấp xỉ 200; trong số ấy trên dưới 60 người có giá trị. Giả sử có ai ngờ vực Cao Huy Khanh quá nặng tình bè bạn, và ai đó hạ số ước lượng xuống còn một nửa - tức 30 tiểu thuyết gia thì 20 năm này cũng gấp 10 lần 30 năm trước. Ấy là chưa kể đến những tùy bút gia, kịch tác gia của thời kỳ sau.
Về mặt khác, hồi tiền chiến ở Trung phần - từ Phú Yên vào đến Bình Thuận - chưa có nhà văn nhà thơ nổi tiếng; và ở khắp các tỉnh Nam phần - ngoài ông bà Ðông Hồ ra - cũng chưa thấy vị nào tiếng tăm rộng rãi trên văn đàn. Nói vậy là căn cứ theo ông Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh.
“Thế rồi trong khoảng 20 năm sau 1954 lần lượt xuất hiện những văn thi sĩ tên tuổi ở Phú Yên (VP ghi chú thêm: Võ Hồng), ở Ninh Thuận Bình Thuận (VP ghi: Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Ðức Sơn), ở Cà Mau (VP ghi: Sơn Nam), Long Xuyên (VP ghi: Nguyễn Hiến Lê), ở Gia Ðịnh (VP ghi: Tô Thùy Yên), Vĩnh Long (VP ghi: Nguyễn Thị Thụy Vũ), Sóc Trăng (VP ghi: Vương Hồng Sển)... Số văn nhân thi sĩ tăng cao chừng ấy, địa bàn văn học nghệ thuật mở rộng đến chừng ấy, như vậy là một đóng góp.
***
“Một đóng góp khác là cái tinh thần tự do, phóng khoáng của thời kỳ văn học này. Thiên hạ nói nhiều về sự đàn áp tinh thần trong những thời ngoại thuộc: hoặc thuộc Tàu, hoặc thuộc Tây. Thực ra, không cứ những thời ấy, ngay lúc nước nhà độc lập, các chế độ quân chủ phong kiến hay chế độ dân chủ cộng hòa ở ta cũng không dung thứ thái độ khích bác nhà cầm quyền. Ngay khi độc lập dân chủ, vẫn thường chỉ có một cái tự do được ban phát rộng rãi, là tự do ca ngợi bề trên.
“Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo...
“Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá.
“Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.
***
“Sau tính cởi mở tự do, chúng ta có thể chú ý đến một đóng góp nữa. Tôi muốn nói về hiện tượng suy tưởng triết lý ở Miền Nam trong thời kỳ 1954-75. Ðến cuối thời tiền chiến, tiểu thuyết ở ta đã có trên dưới mười loại, trong đó có những loại tâm lý, loại luân lý, nhưng khuynh hướng triết lý thì bấy giờ chưa có trong tiểu thuyết. Qua thời kỳ 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam các băn khoăn triết lý xuất hiện đồng loạt trên nhiều địa hạt sáng tác: trong tiểu thuyết, trong thi ca, trong kịch bản, trong tùy bút. Có lúc triết lý tràn lan như một món thời thượng; và nó bị chế giễu.
“Tuy vậy nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc đang chết hàng triệu người vì sự bất đồng ý thức hệ, bất đồng quan niệm sống. Vào lúc ấy sao có thể không suy nghĩ về lẽ sống, sao có thể điềm nhiên phó thác tất cả cho lãnh đạo? Mặt khác, lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng mới đang gây xáo động lớn ở Tây Phương, phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta có một tầng lớp trí thức nhạy bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.
***
“Nền văn học 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam trong thời gian qua bị ém giấu, xuyên tạc. Nó gặp một chủ trương hủy hoại, gặp những bỉ báng hồ đồ. Nó chưa được mấy ai lưu tâm tìm hiểu, phán đoán cách đứng đắn, tử tế. Những điều tôi vừa nêu ra chắc chắn còn thiếu, còn sai còn cạn cợt. Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.
[Xin chào anh Ðặng Tiến. Xin chào quí vị thính giả.]” Võ Phiến, 10-1998
Bộ Văn Học Miền Nam 1954-75
Khi Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến là vào thời điểm tháng 10 năm 1998, chỉ một năm trước khi Võ Phiến hoàn tất toàn tập bộ Văn Học Miền Nam [với tập I là Văn Học Miền Nam Tổng Quan xuất bản 1986 và tập cuối cùng là Bút Ký Kịch Miền Nam, xuất bản 1999]. Tưởng cũng cần lưu ý câu phát biểu cuối của nhà văn Võ Phiến: “Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.”
Như vậy có thể nói, cho dù Võ Phiến đã phải lao động bền bỉ suốt 15 năm [1984-1999] để hoàn tất bộ sách Văn Học Miền Nam nhưng chính ông chưa hề tự coi đó là một công trình hoàn hảo nên vẫn ao ước việc đánh giá nền văn học 1954-75 cần được bắt đầu nghiêm chỉnh.
Cho dù bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến có những hạn chế đưa tới nhiều tranh cãi khá gay gắt. Người ta đã nặng lời trách ông về những phần thiếu sót trong bộ sách ấy: như khi ông đã gạt một số tên tuổi văn học của thời kỳ 1954-75 ra khỏi bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan, rồi cả cách ông phê bình các nhà văn, nhà thơ được ông chọn đưa vào sách cũng bị ông sử dụng cái sở trường văn phong tùy bút/ nay thành sở đoản để châm biếm mỉa mai cá nhân với nhiều thiên lệch.
Nhà văn Mặc Ðỗ nhóm Quan Ðiểm thì thật sự bất bình, Mai Thảo nhóm Sáng Tạo trong lần trò chuyện cuối cùng với Thụy Khuê Tháng Bảy 1997 cũng không kềm được cảm xúc nói tới “bọn Vua Lê Chúa Trịnh,” và nói thẳng: “Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được. Ðại khái như phê bình văn học, đối với tôi thì không được. Văn Học Miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp văn hay.” (2)
Nhưng khách quan mà nói, ngòi bút Võ Phiến cũng không thiếu phần tự trào, và cả châm biếm bản thân mình. Khi trả lời phỏng vấn Lê Quỳnh Mai trong chương trình Văn học Nghệ thuật đài TNVN Montréal 29-10-2000, nhà văn Võ Phiến đã không ngại khi ví mình như một Xuân Tóc Ðỏ của Vũ Trọng Phụng: “Nói tới sự may mắn, chắc chị còn nhớ tới Số Ðỏ của Vũ Trọng Phụng, nếu tôi có được một số độc giả chú ý, chẳng qua cũng như anh chàng Xuân Tóc Ðỏ trong truyện ấy thôi.” (4)
Bản thân Võ Phiến cũng đã biết rất rõ phản ứng của giới cầm bút về bộ sách Văn Học Miền Nam. Trong thư nhà văn Võ Phiến gửi Lê Thị Huệ Gió-O ngày 16 Tháng Hai 2001:
“Anh chị em cầm bút thời 1954-75 ở Miền Nam, nhiều người phiền trách tôi về bộ sách này lắm. Tôi chịu trận thôi. Viết mà cốt cho ai cũng... thương (!) thì thành ra cái quái gì.” (3)
Nếu độc giả bình tâm đọc lại Lời Nói Ðầu của cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ Phiến đã bàn qua về “lý do biên soạn cuốn sách đầy những lôi thôi thiếu sót này.” [sic]
Ông đã giải thích rất rõ:
“Trước hết mình không phải là một nhà phê bình nhà biên khảo gì ráo mà tự dưng xông ra làm công việc biên khảo phê bình là chuyện không nên. Hơn nữa hoàn cảnh thật là khó: xung quanh không có tài liệu mà mình thì không có điều kiện để đi tìm tài liệu, lấy gì tham khảo?”
Ông cũng tiên đoán được cả những hệ lụy như: “viết cái gì có liên quan đến kẻ khác, có chê khen người nọ người kia mà viết qua quýt thì bị mắng mỏ xỉa xói tưng bừng là cái chắc.”
Cân nhắc như vậy, nhưng ông vẫn viết tiếp:
“Ấy vậy mà nghĩ đi nghĩ lại chán chê rồi tôi lại quyết định cứ viết cuốn sách này. Trước hết là vì chỗ nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn. Thật vậy, thời kỳ 1954-75 gặp cái rủi ro hiếm thấy, là trong suốt hai mươi năm trời không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp. Nhưng trước khi có sự công bình, sự sáng suốt, hãy chỉ mong được chút lưu tâm...
“Thời kỳ 1954-75: câu chuyện hủy diệt văn hóa phẩm Miền Nam từ 1975 đến nay không ai là không biết. Ta đã không thể ngăn chận được việc phá hủy, không thể bảo tồn được cái thành tích văn học nọ, thì ngay lúc này cũng nên có một tổng kết, một kiểm điểm sơ lược, để về sau những ai lưu tâm còn có chút căn cứ sưu khảo. Không thế, sao đành?”
Vì chỗ “nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn... rốt cuộc đành miễn cưỡng viết cuốn sách này trong những điều kiện rất không nên viết. Viết như là một sơ thảo, một bản nháp, một gợi ý, nhắc nhở, một cách nêu vấn đề, để sau này những người có đầy đủ tư cách và điều kiện sẽ viết lại một cuốn xứng đáng.” (1)
Biết thiếu sót, biết trước có những hạn chế nhưng chính Võ Phiến, trái với bản chất thâm trầm và thận trọng cố hữu, Võ Phiến vẫn liều lĩnh - như một “risk taker,” ẩn nhẫn làm một công việc tốn rất nhiều công sức và cả nhiều rủi ro như thế. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trong suốt hơn 15 năm từng bước hoàn thành công trình Văn Học Miền Nam với hơn ba ngàn trang sách ấy, Võ Phiến vẫn đang là một công chức Sở Hưu Bổng làm việc full time cho quận hạt Los Angeles, như vậy là ông đã phải làm việc ngoài giờ và những ngày cuối tuần. Võ Phiến về hưu Tháng Bảy năm 1994, ông tiếp tục viết thêm 5 năm nữa để hoàn tất toàn bộ Văn Học Miền Nam 1999. Nếu không có hùng tâm, với công sức của một cá nhân khó có thể làm được như vậy.
Nhưng để rồi khi viết xong, chính Võ Phiến không khỏi ngẩn ngơ tự hỏi: “Cái đã viết ra đó là cái gì vậy? Là lịch sử hai mươi năm văn học Miền Nam chăng? Là kiểm điểm phê bình nền văn học Miền Nam chăng? 3/4 rõ ràng nó không xứng đáng là lịch sử, là phê bình gì cả. Nó không có cái tầm tổng hợp rộng rãi, nó thiếu công phu suy tìm và phân tích đến nơi đến chốn về bất cứ môn loại nào khuynh hướng nào. Chẳng qua chỉ có những nhận xét rất khái lược, liên quan đến nền văn học và các văn gia một thời mà thôi.” (1)
Bao nhiêu phê phán từ trong và ngoài giới văn học đối với công trình Văn Học Miền Nam 1954-75 của Võ Phiến, thực ra cũng không có nghiêm khắc hơn phần “tự kiểm” của chính Võ Phiến trong Lời Nói Ðầu, Văn Học Miền Nam Tổng Quan tập 1.
Công trình nghiên cứu của Võ Phiến cần được đánh giá đúng vào giai đoạn thập niên đầu ngay sau 1975 với hoàn cảnh ra đời của nó: khi mà trong nước có cả một sách lược hủy diệt toàn diện, xóa sổ nền văn học Miền Nam 20 năm ấy, công trình của Võ Phiến như một nỗ lực sưu tập và cứu vãn/ rescue mission, nên xem như một khởi đầu đáng được trân trọng.
Ai cũng hiểu bộ sách Văn Học Miền Nam “không chuyên nghiệp” của Võ Phiến sẽ không bao giờ là bộ sách phê bình văn học duy nhất hay cuối cùng, nhưng đó là một bước tạo thuận/facilitation khởi đầu, một roadmap dẫn tới cả một khối tài liệu đồ sộ để tham khảo, nó như một giàn phóng cho những công trình hoàn chỉnh kế tiếp. Ðây chính là phần trách nhiệm và nghiệp vụ của giới phê bình chuyên nghiệp, họ cần có hùng tâm để “bắt đầu nghiêm chỉnh“việc đánh giá nền văn học 1954-75 bằng những tác phẩm xứng đáng thay vì cứ mãi xoáy nhìn vào “nửa phần vơi” của bộ sách Võ Phiến.
Một câu hỏi được đặt ra: ai trong chúng ta có thể “bắt đầu nghiêm chỉnh” một công trình nghiên cứu như vậy? Một câu hỏi tiếp theo: ai sẽ thừa kế kho tư liệu phong phú mà anh Võ Phiến có được trước khi rơi vào quên lãng?
Lê Ngộ Châu hòa giải
Năm 1994, anh Lê Ngộ Châu và con gái sang Mỹ. Với 18 năm điều hành tờ Bách Khoa, anh có nhiều thân hữu: Võ Phiến có lẽ là người anh thân thiết nhất. Trong chỗ rất riêng tư, khi biết giữa anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác có “vấn đề” trong sự chuyển tiếp từ tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học.
Nguyễn Mộng Giác với Võ Phiến vốn là người cùng tỉnh. Võ Phiến tâm sự: “Gặp một tác giả đồng tỉnh là một niềm vui mừng, lại phát giác ra ở tâm hồn tác giả nọ một số đặc điểm địa phương đã làm nên cái đẹp của tác phẩm thì lý thú biết bao! Làm sao cầm lòng được? Phải nói về Bình Ðịnh chứ chị!” (4)
Nhưng rồi cái tình đồng hương ấy cũng không tránh được trục trặc trong vấn đề điều hành tờ Văn Học và chọn bài vở khi mà Võ Phiến còn đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn Mộng Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm thấy ngay được sự “nghẽn mạch” giữa hai người. Anh Lê Ngộ Châu sốt sắng đóng vai “hòa giải” - vẫn chữ của Lê Ngộ Châu.
Như một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt tiếp đón anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse trên đường Bellflower, Long Beach nơi tôi cư ngụ. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác; riêng Lê Tất Ðiều đưa anh Võ Phiến tới nhưng bận nên không tham dự; và có khoảng hai chục thân hữu quen biết anh Lê Ngộ Châu và tạp chí Văn Học có mặt hôm đó: các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc Chi, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy... Chỉ riêng cái tình “tha hương ngộ cố tri” ấy, qua những trao đổi, như từ bao giờ anh Lê Ngộ Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên dáng, anh đã như một chất xi-măng nối kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao, trong suốt 18 năm tới 1975, anh Lê Ngộ Châu đã điều hợp được tờ Bách Khoa vốn là một vùng xôi đậu phức tạp như vậy.
Ðó là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ Châu, cũng như ông giám đốc Nhà sách Khai Trí, cả hai đều chọn trở về sống ở Sài Gòn. Năm 2006, trong dịp đi thăm Ðồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại anh Lê Ngộ Châu nơi tòa soạn Bách Khoa, 160 Phan Ðình Phùng ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc tới buổi gặp gỡ hôm đó. Khi hỏi anh về cuốn hồi ký 18 năm tờ báo Bách Khoa, anh Lê Ngộ Châu cười dí dỏm trả lời:
“Anh Vinh hỏi Võ Phiến có cho tôi viết không?” Anh Châu muốn nói tới những chuyện ngoài văn học diễn ra ở tòa soạn Bách Khoa trong suốt thời kỳ ấy. Khi trở lại Mỹ, chỉ ít lâu sau được tin anh Châu mất ngày 24 Tháng Chín 2006, anh thọ 84 tuổi.
Võ Phiến 75 tuổi, quá mức ước ao
Tháng Mười Hai cuối năm 1998, tôi nhận được thiệp chúc xuân của nhà văn Võ Phiến, anh viết:
“Một năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 75: quá mức ước ao! Anh sắp tới lục tuần chứ ít sao, lục tuần là tuổi tung hoành múa bút khỏe lắm. Xin chúc anh chị sang năm mới được mọi sự an lành. Riêng anh nên có sách mới xuất bản. Thân mến, Võ Phiến”
Thực sự anh Võ Phiến lúc đó mới 73 tuổi, anh sinh năm 1925, tuổi Ất Sửu.
Cả ba bạn văn: nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà báo Như Phong và anh Lê Ngộ Châu cùng tuổi Quý Hợi (1923), hơn Võ Phiến hai tuổi. Doãn Quốc Sỹ vẫn gọi đùa Lê Ngộ Châu là Lê Quý Hợi và anh ấy là Doãn Quý Hợi. Ba ông Quý Hợi thì nay chỉ còn một Doãn Quốc Sỹ. Nhà báo Như Phong mất 2001 tại Virginia, chủ nhiệm Lê Ngộ Châu mất 2006 tại Sài Gòn.
Cũng vẫn thư nhà văn Doãn Quốc Sỹ gửi anh Lê Ngộ Châu [29/08/1996] có nhắc tới Võ Phiến mà anh gọi đùa là cụ Võ Bình Ðịnh: “Ðược xem bức ảnh cụ Võ Bình Ðịnh mặc màu áo sơ-mi rất trẻ, nhìn ảnh cụ cười mà tưởng như nghe thấy cả tiếng cười hóm hỉnh của cụ điểm xuyết trong câu chuyện tại tòa soạn Bách Khoa ngày nào.”
Trước ngưỡng tuổi cổ lai hy, Võ Phiến đã trải qua hai cuộc mổ tim lớn / Coronary Artery Bypass Surgery; lần thứ nhất 1985 khi Võ Phiến mới 60 tuổi, anh bắt đầu bị ám ảnh về cái chết:
Ra đi tuổi chẵn năm mươi,
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê... (1986)
Bảy năm sau 1992, Võ Phiến 67 tuổi lại phải bước vào cuộc mổ tim lần thứ hai khó khăn và phức tạp hơn. Anh bi quan và bị ám ảnh nhiều hơn về cái chết.
Anh đã đặt bút viết về Cái Sống Hững Hờ:
“Bản thân tôi trước đây có lần phải vào bệnh viện chịu mổ xẻ, tôi ngậm ngùi viết những lá thư gửi lại bạn bè, nhờ một văn hữu thân tình trao giúp cho, sau khi mình...ra đi. Hóa ra rồi sau cuộc giải phẫu tôi tiếp tục sống nhăn. Sống và ngượng ngập vu vơ.
“Năm tháng trôi qua. Quá bát tuần, tôi lén lút hướng một chút tưởng tượng về cái kết thúc của đời mình. Chắc là gần thôi. Liếc mắt phớt qua tí ti, sợ gì? Liếc qua xong rồi liếc lại, tôi ngạc nhiên không nhận thấy một xúc động bất thường nào xảy ra cả. Cuộc sống đang tiếp diễn vẫn tiếp diễn đều đều...
“Tạo Hóa có lòng lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh lòng người. Tuổi người càng cao, lòng người càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại một sự hững hờ: ‘Chết? ai mà khỏi? Việc gì phải sợ?’ Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi cho được vừa huýt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những bước thong thả, hững hờ. Ðại khái thế thôi.”
Khi chị Võ Phiến cũng nghỉ hưu, không còn nhu cầu ở gần sở làm nữa, năm 2003 anh chị dọn về vùng gần Little Saigon. Ngôi nhà mới xinh xắn hai tầng trong một cư xá yên tĩnh cuối đường số 5 thành phố Santa Ana, cũng có một khoảnh vườn rất nhỏ với những cây hoa hồng ở bờ dậu, và một ít cây trái; vừa sức để chị Võ Phiến bước qua tuổi 70 vẫn còn có thể vui thú điền viên và chăm sóc. Ngoài những sách tái bản như Võ Phiến Toàn Tập, Cuối Cùng được coi là tác phẩm sau cùng của Võ Phiến hoàn thành nơi ngôi nhà mới, viết xong 2007 NXB Thế Kỷ 21 cho in năm 2009.
Võ Phiến bước vào tuổi 90
Sinh ngày 20 Tháng Mười, 1925, sáu tháng nữa, 2015 Võ Phiến vừa tròn 90 tuổi. Có lẽ anh là một trong số ba nhà văn Miền Nam ở hải ngoại sống thọ nhất, chỉ sau nhà văn Mặc Ðỗ 98 tuổi [sinh năm 1917] sống ở Austin Texas, nhà văn Doãn Quốc Sỹ 92 tuổi [sinh năm 1923] hiện sống ở Nam California.
Lại vẫn dùng một câu viết 17 năm trước trong một thiệp xuân của Võ Phiến 1998: “Một năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 90: quá mức ước ao!”
Và cuộc sống của Võ Phiến “vẫn cứ tiếp diễn đều đều.” Chị Viễn Phố, vợ anh vẫn che dù cho anh đi bộ mỗi ngày với walker có bánh xe lăn. Nhìn chung theo khía cạnh y khoa, ở nhóm tuổi 90 ấy, thể lực của anh Võ Phiến được xem là khá tốt cho dù trí tuệ anh đã có nhiều phần lãng đãng, cái lãng của người cao tuổi / senile dementia. Anh không nhớ hết những khuôn mặt thân quen nhưng với vài người “bạn cựu” - vẫn chữ của Võ Phiến - thân thiết lâu năm như Hoàng Ngọc Biên, Ðặng Tiến, Lê Tất Ðiều... anh vẫn giữ được một trí nhớ xa/ remote memoryqua các cuộc nói chuyện điện thoại gần đây và cả ở những lần gặp mặt.
Vậy mà đã 40 năm, với hai lần Võ Phiến khóc khi di tản khỏi Việt Nam: một lần ở tòa soạn báo Bách Khoa trên đường Phan Ðình Phùng, lần thứ hai trên con tàu Challenger khi rời đảo Phú Quốc. (5) Bốn mươi năm ấy 1975-2015, với bao nhiêu nước chảy qua cầu, như một nhà văn lưu đầy Võ Phiến vẫn sống làm việc trong sự cô đơn buồn bã. (6)
Bài viết Tháng Tư này, gửi tới nhà văn Võ Phiến khi anh bước vào tuổi thượng thọ 90, ngưỡng tuổi 90 xưa nay là hiếm. Cũng gửi tới hai anh chị Võ Phiến và Viễn Phố lời chúc “cây đời thì vẫn cứ mãi xanh tươi” (7).
Tham khảo:
1) Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Lời Nói đầu. Võ Phiến. Nxb Văn Nghệ 1986. http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3056
2) Lần trò chuyện cuối cùng với Mai Thảo. Thụy Khuê 07/ 1997
http://hopluu.net/a1153/noi-chuyen-voi-nha-van-mai-thao-va-tran-vu
3) Lê Thị Huệ. Võ Phiến, Văn Chương Mất Trí Nhớ. 11-2012
http://www.gio-o.com/Chung/LeThiHueVoPhien.htm
4) Lê Quỳnh Mai phỏng vấn nhà văn Võ Phiến. Tác giả, với chúng ta. Nxb Khôi Nguyên, Montréal Canada 2004.
5) Ngô Thế Vinh, Bốn Mươi Năm Dương Nghiễm Mậu và Tự Truyện Nguyễn Duhttp://damau.org/archives/35745
6) John C. Schafer Võ Phiến and the sadness of exile. Southeast Asia Publications, Center for Southeast Asian Studies, Northern Illinois University, Mar 1, 2006
7) Johann Wolfgang von Goethe. All theory, dear friend, is gray, but the golden tree of life springs ever green. Faust pt.1 (1808) 'Studierzimmer'
----
(*) Bài viết được đăng trên Diễn Ðàn Thế Kỷ Online, ngày 26 Tháng Tư, 2015.
-
nhà văn Võ Phiến |
Qua điện đàm, bà Võ Phiến cho tòa soạn Người Việt biết thời gian gần đây nhà văn Võ Phiến yếu dần theo tuổi già, đã qua vài lần vào bệnh viện, và cách đây mấy ngày đã được đưa về một Rehab Center để tĩnh dưỡng.
Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông).
Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học.
Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết:
Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...;
về tùy bút, tạp bút:
Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v...
Photo Huynh Ngoc Dan/NguoiViet |
Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.
Gia đình cho biết thi hài nhà văn Võ Phiến sẽ được quàn tại Peek Family, chương trình tang lễ sẽ được thông báo sau. (P.X.Đ)
MỘT NGÔI SAO VỪA TẮT TRÊN VÒM TRỜI VĂN HỌC, NHÀ VĂN VÕ PHIẾN (1925-2015)
by Nguyễn Ngọc Bích Việt Báo 30/9/2015
nhà văn Võ Phiến |
Một nhà văn lớn, một ngôi sao sáng trong vườn văn-học Việt-nam vừa mới ra đi.
Hôm qua, trong lúc tôi đang lái xe trên đường từ Maryland về thì anh Bùi Bảo Trúc kêu tôi từ Quận Cam nói: “Anh Bích ơi, anh Võ Phiến chắc sắp ra đi rồi. Chị Võ Phiến đã mời Thầy Viên Lý đến tụng kinh cho anh và gia-đình đoán là bất cứ giờ nào anh ấy có thể sẽ quy tiên.” Quả như rằng, đến 7 giờ tối thứ Hai, 28 tháng 9, 2015, nhà văn Võ Phiến, một cây bút hàng đầu của Việt-nam tự do và của cộng-đồng hải-ngoại, đã trút hơi thở cuối cùng.
Không bất ngờ
Sự ra đi của ông không phải là một chuyện bất ngờ. Từ nhiều năm nay, ông đã phải ngừng viết vì chứng bệnh Alzheimer của tuổi già, lúc nhớ lúc quên. Nhà văn Trùng Dương, cách đây hơn 5 năm, đã đến thăm ông bà Võ Phiến, kể:
“Buổi viếng thăm anh chị lần này đã để lại trong tôi một xúc động mãnh liệt… Đến nơi lúc 11 giờ đã thấy chị đứng sẵn ở cổng bên mấy bụi hoa hồng chờ khi tôi lái xe vào khoảng sân trước nhà để xe (nay đã biến thành kho chứa sách vì đã nhiều năm anh chị không lái xe). Bước vào nhà đã thấy anh áo quần tề chỉnh, cả đội mũ nữa, chắc cho ấm đầu, với mái tóc trắng còn lưa thưa, đang chờ khách. Tôi cảm động lắm, vì rõ ràng là anh chi đang ngóng chờ khách phương xa.”
Kinh-nghiệm này hoàn-toàn ăn khớp với hình ảnh vợ chồng tôi có mỗi khi có dịp sang Quận Cam và đến thăm anh chị Võ Phiến. Vẫn một sự hiếu khách và ân cần săn đón niềm nở dành cho một người chỉ đáng tuổi em mình, vẫn một sự tò mò hỏi han về công việc văn-học của khách (khác hẳn nhiều người gặp khách chỉ kể về mình).
Tôi còn giữ được không ít những lá thư anh viết cho tôi, khuyến khích tôi trên mỗi chặng đường nghiên cứu của tôi. Như năm 1983, vợ chồng tôi có viết chung một tiểu-phẩm mang tên Những địa-tầng ngôn ngữ trong lịch-sử tiếng Việt được cụ Nguyễn Khắc Kham khen, trong khi anh Võ Phiến thì vui hẳn:
“Bản Tin Văn Hóa của Cung Tiến ở Minnesota liên tiếp mấy kỳ đăng loạt bài về ngữ học của Anh, đọc thích ơi là thích. Không dám khen các tác giả về kiến thức rộng…, tôi lấy làm thích thú đặc biệt là những suy tìm, nghĩ ngợi, nhận xét rất thâm thúy và tinh tế… Tôi ngờ những bài này ở trong một cuốn sách, cắt đăng từng kỳ báo chậm quá, người đọc phải chờ đợi lâu quá. Anh có dự tính nào về việc in cuốn này chăng? Nếu có xin Anh báo tin cho tôi biết với. Tôi chắc ở vùng Nam Cali này có nhiều người muốn mua đấy.”
Rồi anh kết-luận thật dí dỏm:
“Lâu quá tôi ít thư từ cho ai, không có thư thăm Anh, nhưng mới nhận được Bản Tin Văn Hóa mới hôm qua, khoái quá, không thể không ba hoa với Anh vài lời.” (Thư từ Los đề ngày 20 tháng 9 năm 1983)
Lần khác, anh nhận-định chung về tình-hình nghiên cứu ở hải-ngoại: “Tình hình biên khảo về văn học VN do người Việt hải ngoại lâu nay khá bi quan. Từ sau cụ Hoàng Xuân Hãn, thường thường không mấy ai phát giác ra cái gì mới mà chỉ tổng kết những thành quả khảo cứu của các học giả trong nước. Vì vậy khi được đọc những bài của Anh với những phát giác mới, những bài khảo cứu có tinh thần sáng tạo, tôi thật khoái và thêm tin tưởng ở hoạt động văn hóa của bà con hải ngoại chúng ta.” (Thư đề ngày 7 tháng 12, 1983)
Sang đầu năm 1984, anh lại viết cho tôi về hai chữ Nôm nhức óc mà cho đến gần đây chưa mấy ai đọc được cho chính-xác:
“Vụ ‘song viết’ tôi cũng nghĩ là anh thắng, các nhà nghiên cứu ngoài Bắc thua… Nhân dịp Đào Duy Anh bị ‘chôn’ sống [ở ngoài Bắc], tôi có ý kiến là anh nên tìm cách phổ biến bài nghiên cứu của anh càng rộng càng hay. Đề phòng một ngày kia, Hà nội dùng ngay những phát giác của anh mà tỉnh bơ không nhắc tới tên anh. Lúc bấy giờ mình lấy những tờ báo đã đăng bài của anh ra làm bằng chứng” (Thư đề ngày 25 tháng 1, 1984) mà tố-cáo sự gian lận của họ.
Sở dĩ tôi hơi dông dài nhắc về một vài kỷ-niệm của tôi (cái tôi đáng ghét) với anh Võ Phiến như trên đây là để thấy là như một người đàn anh trong văn-đàn, anh lúc nào cũng ưu ái theo dõi công việc của người khác mà anh coi như đồng-nghiệp chứ không phải đòi ăn trên ngồi trốc như một ông tiên-chỉ trong làng văn. Đó là một đặc-điểm của cái mà nhà văn Mai Thảo gọi là “cộng-hòa chữ nghĩa” (“la République des lettres” nói theo kiểu Pháp) trong đó chỉ có anh em chứ không có ai chiếu trên, ai chiếu dưới—một điểm đặc-thù của văn-học miền Nam và của hải-ngoại.
Một tổng-tác-phẩm đồ sộ
Sinh năm 1925 ở Bình-định, ông có tên thật là Đoàn Thế Nhơn nhưng lấy tên vợ, Viễn Phố, đảo lại thành bút-hiệu Võ Phiến—một ý-tưởng vừa ngộ nghĩnh vừa đáng yêu. Bắt đầu viết từ rất sớm (1943 trên Trung Bắc Tân Văn), tham-gia kháng-chiến xong bỏ về thành, cùng với một số bạn ra tạp-chí văn-học Mùa Lúa Mới ở miền Trung. Thời-gian trước năm 1975 vì làm trong ngành kiểm duyệt của Bộ Thông tin nên có dịp theo dõi rất sát sinh-hoạt văn-học của miền Nam. Nhờ những hiểu biết này mà về cuối đời, ông đã viết được ra một cuốn văn-học-sử rất giá trị mang tên Văn học Miền Nam: Tổng Quan (Văn Nghệ, 1987, đã được Võ Đình dịch sang tiếng Anh và G.S. Nguyễn Xuân Thu xuất bản ở Úc) và dựa vào quyển này ông lại thu thập và tuyển chọn được một bộ hợp-tuyển “Văn học miền Nam” gồm 7 quyển, trong đó có ba quyển giới-thiệu Truyện dài và truyện ngắn, một quyển dành cho Ký, một quyển dành cho Kịch và Tùy bút, và một quyển dành cho Thơ (tất cả đều do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Võ Thắng Tiết in ra).
Bên cạnh đó nhà xuất bản Văn Nghệ cũng in ra Toàn Tập Võ Phiến gồm Tùy bút (I và II), Tạp Luận, Tiểu Luận, Truyện ngắn (I và II), Tiểu thuyết (I và II), Tạp Bút. Tóm lại, một tổng-tác-phẩm rất đồ sộ.
Sau này, nhà xuất bản Người Việt cũng lại cho in một Tuyển tập Võ Phiến bìa dầy rất trang trọng.
Trong những tác-phẩm của ông mà được người ta nhắc đến nhiều có: các tiểu-thuyết Mưa Đêm Cuối Năm (Giải văn chương toàn-quốc 1960), Giã từ (Bách Khoa, 1962), Một mình (Thời Mới, 1965), Đàn ông (Thời Mới, 1966), và các tập truyện ngắn Chữ tình (Bình Minh, 1956), Người tù (Qui Nhơn, 1957), Mưa đêm cuối năm (Tự Do, 1958), Đêm xuân trăng sáng (Nguyễn Đình Vượng, 1961), Thương hoài ngàn năm (Bút Nghiên, 1962), Ảo Ảnh (1967), Phù Thế (1969), chưa kể ông còn có một số tác-phẩm dịch (Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà dịch Stefan Zweig, Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại dịch André Maurois, Truyện hay các nước I và II, dịch với Nguyễn Minh Hoàng, và Ông chồng muôn thuở dịch Dostoyevsky).
Đặc-biệt mê Võ Phiến thì có Võ Đình (có lần anh tả cho tôi cái óc quan-sát đặc-biệt tinh tế về một con ruồi của Võ Phiến trong truyện “Một ngày để tùy nghi”), Thụy Khuê cũng đã viết một thiên khảo cứu về Võ Phiến trên Hợp Lưu số 103 (tháng 12/2008) và Nguyễn Hưng Quốc đã có nguyên một cuốn sách dài viết về Võ Phiến (1996). Một giáo-sư người Mỹ, ông John C. Schafer, cách đây gần 10 năm cũng đã có Võ Phiến and the Sadness of Exile (“Võ Phiến và nỗi buồn lưu vong”), một cuốn chuyên-đề do Northern Illinois University in ra (Monograph Series on Southeast Asia, 2006).
Tỵ nạn sang Mỹ, ông bắt đầu viết lại với Thư Gửi Bạn (1976), rồi Lại Thư Gửi Bạn (1978), Ly Hương (1977, viết chung với Lê Tất Điều) và truyện dài Nguyên Vẹn (1978, đã được James Banerian dịch sang tiếng Anh). Tiểu-luận của ông viết ở Mỹ đã được Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Sanh Thông dịch sang tiếng Anh và truyện ngắn của ông (do Võ Đình, Phan Phan, và Huỳnh Sanh Thông dịch) cũng đã được đưa vào sách Landscape and Exile (Marguerite Bouvard, ed., Boston: Rowan Tree Press, 1985). Sang thập niên 1990, ông còn có thêm các tác-phẩm Truyện thật ngắn (1991), Quê (1992), Viết (1993), Đối Thoại (1993), Sống và Viết (1996), và Thơ Thẩn (1997), tất cả cũng do nhà xuất bản Văn Nghệ ở Cali in ra.
Không chỉ viết, ông là một trong những cây bút cột trụ của báo Bách Khoa trước năm 1975, ông còn lập ra nhà xuất bản Thời Mới để in sách của mình và của những tác-giả trẻ mà ông tin tưởng là có tương-lai nên muốn giới-thiệu với công-chúng.
Lăng-xê các cây bút trẻ
Một vài người ác-ý cho rằng Võ Phiến chỉ thích giúp và giới-thiệu các cây bút nữ ra với công-chúng. Nhưng theo Hồ Trường An, viết trong sách Cảo thơm lần giở (Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ xb, 2015), nhà xuất bản Thời Mới của ông, ngoài sách của chính Võ Phiến, còn in sách của Võ Hồng, Lê Tất Điều, Thế Uyên, Y Uyên, Đỗ Tấn bên cạnh Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ… Ngoài ra, tuy không in tác-phẩm của họ, ông Võ Phiến vẫn làm cho công-chúng chú ý đến Hoàng Ngọc Tuấn, Trùng Dương…
.
Sang Mỹ, Võ Phiến là một trong những người đầu tiên cầm bút trở lại mặc dù ông thừa biết là nhà văn mà mất đi độc-chúng thì cũng như cá bị ném lên trên cạn. Mặc dầu vậy, ông vẫn viết và cho rằng chỉ cần còn bạn tri kỷ là còn “thư gửi bạn” được. Ông tin tưởng đủ ở văn-học Việt-nam hải-ngoại để cùng Nguyễn Mộng Giác lập ra một trong những tạp-chí văn-học đầu tiên ở xứ người, tờ Văn Học Nghệ Thuật, sau này trở thành tờ Văn Học (do Nguyễn Mộng Giác chủ-trì một thời-gian dài).
Mô-tả cách viết của Võ Phiến, Trùng Dương nói khá chính-xác:
“Mặc thời đại vi tính với Internet, anh vẫn viết tay. Tôi còn nhớ có lần nghe anh nói anh phải cảm ơn thấy da thịt của tay mình tiếp xúc với mặt giấy mới yên tâm sáng tác được, hay một ý tưởng tương tự. Tôi hình dung mặt tờ giấy đối với anh có lẽ cũng giống như cái ‘security blanket’ đối với nhiều trẻ nhỏ. Nhưng từ vài năm nay anh không viết nữa. Một đời gắn liền với chữ nghĩa bỗng như hụt hẫng, thừa, chị nói với riêng tôi, nước mắt ứa ra. Anh không biết tại sao mình sống lâu như vậy. Tôi vỗ về cánh tay trái mới té gãy và còn băng bột của chị. Chị rất sợ lỡ phải ‘đi’ trước anh, vì không biết ai sẽ chăm sóc anh được như chị chăm sóc anh. Chị không muốn con cái phải bận tâm nhiều về cha mẹ già. Hôm chị té gẫy tay, mãi sau khi đi bác sĩ băng bó xong, đến tối mấy người con mới hay…
“Tôi ra về, trong đầu lởn vởn ba câu thơ của anh làm năm 1986, mà chị đọc cho tôi nghe trước đó. Tôi đã hỏi chị ‘sao chỉ có ba câu, thay vì bốn?’ Chị đáp, ‘ai mà biết, cô hỏi tác giả xem.’ Tôi đáp, nhìn sang cửa phòng đã khép, ‘thôi để anh nghỉ.’ Tôi xin phép về, cũng để chị nghỉ nữa. Tôi nghĩ với riêng mình, có những điều tốt hơn không cần giải thích.
Vả, tôi nghĩ là tôi hiểu vì sao bài thơ chỉ có ba câu:
Ra đi, tuổi chẳng năm mươi.
Năm mươi tuổi nữa, nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê…”
Gs Nguyễn Ngọc Bích
Bốn Mươi Năm Võ Phiến Nhà Văn Lưu Ðày
by Nhà văn Ngô Thế Vinh (*) - Người Việt Tuesday, September 29, 2015nhà văn Võ Phiến |
Lời tòa soạn: Nhà văn Võ Phiến vừa qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 Tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, thành phố Santa Ana, California, thọ 90 tuổi. Trong niềm tiếc thương một nhà văn lớn của miền Nam Việt Nam ở thế kỷ 20, Nhật báo Người Việt gởi đến quý độc giả bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh, như một nén hương lòng gởi đến người đã khuất.
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến 28-10-1998]
Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã Từ, Lại Thư Nhà, Một Mình...
Rồi qua người bạn tấm cám Nghiêu Ðề, qua tòa soạn Bách Khoa, tôi quen ông từ những năm trước 1960 cho tới khi ra hải ngoại về sau này.
Võ Phiến Bắt Trẻ Ðồng Xanh
Võ Phiến viết Bắt Trẻ Ðồng Xanh, đăng trên Bách Khoa Tháng Mười năm 1968, tựa đề từ cuốn sách dịch của Phùng Khánh Phùng Thăng The Catcher in the Rye của nhà văn Mỹ J.D. Salinger, nhưng nội dung bài viết thì lại nói về kế hoạch cộng sản miền Bắc đưa trẻ em từ trong Nam ra Bắc huấn luyện rồi sau đó đưa trở về miền Nam. Cộng sản cũng đã làm như vậy sau khi ký Hiệp Ðịnh Geneve 1954. Võ Phiến viết:
“...trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước Cộng Sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc... họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh...”
“Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa xẩy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở.” (Võ Phiến, Bắt Trẻ Ðồng Xanh, Bách Khoa 10/1968)
Bắt Trẻ Ðồng Xanh hoàn toàn không phải là tùy bút hay truyện ngắn mà là một bài chính luận, một bạch thư tố cáo dã tâm của người Cộng Sản Việt Nam, chưa bao giờ thực sự muốn có hòa bình, nếu có hòa đàm thì đó chỉ là bước hoãn binh chiến lược, họ vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác. Bài viết như một tiên tri, một báo động đã thực sự gây chấn động dư luận bên trong cũng như ngoài nước, với cái giá Võ Phiến phải trả là bị Việt Cộng lên án, và cả hăm dọa tính mạng tiếp sau cái chết của ký giả Từ Chung tổng thư ký báo Chính Luận, do bị đặc công CSVN ám sát. Theo Lê Tất Ðiều, đã có lúc Võ Phiến nghĩ tới tạm lánh xuống vùng Hòa Hảo, một khu được coi là miễn nhiễm với mọi xâm nhập của cộng sản. Ðó cũng là lý do tại sao, Võ Phiến có thời gian làm giáo sư văn chương trường Ðại học Hòa Hảo, Long Xuyên. Trong nghịch cảnh cũng có cái may, nơi đây anh quen một đồng nghiệp trẻ Ðỗ Văn Gia, lúc đó cũng đang dạy bộ môn Triết học Ðông phương. Sau này ra hải ngoại, chính anh Ðỗ Văn Gia trong thời gian làm giảng viên văn học và ngôn ngữ Việt Nam tại Ðại học Cornell từ 1982, đã giúp nhà văn Võ Phiến rất nhiều tư liệu ban đầu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam.
Bánh tráng xứ Nẫu trên đất Mỹ
Từ thập niên 1980, lúc đó hai anh chị Võ Phiến đều là công chức quận hạt Los Angeles, ngôi nhà số 5621 Baltimore St. Highland Park là nơi Võ Phiến đã sống quãng thời gian 23 năm. Nhà có vườn rộng đủ loại cây trái chanh cam bưởi, nhiều nhất là những cây hồng giòn sai trái nặng trĩu cành, có cả bức tượng bán thân của Võ Phiến, tác phẩm điêu khắc của Ưu Ðàm, con trai của họa sĩ Rừng. Trong nhà, ngoài những kệ sách, không có tượng Phật hay tượng Chúa, chỉ có đơn giản một bàn thờ nhỏ cúng gia tiên. Cũng nơi đây, Võ Phiến đã viết một số những tác phẩm tại hải ngoại: bộ Văn Học Miền Nam, Thư Gửi Bạn, Nguyên Vẹn, Truyện Thật Ngắn, Ðối Thoại...
Những lần tới thăm anh Võ Phiến, thường là Thứ Bảy cuối tuần vì khách cũng như chủ nhà còn ở tuổi lao động đi làm. Khách thăm thường đi theo nhóm. Khi thì với Nguyễn Mộng Giác và anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, khi thì với Tạ Chí Ðại Trường, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo; khi thì với anh chị Trần Huy Bích, chị Bích thì rất thân thiết với chị Võ Phiến.
(Từ trái): Huỳnh Sanh Thông (1926 -2008), Ðỗ Văn Gia (1946-1992), Từ Mai Trần Huy Bích. |
Trùng Dương từng gọi chị Võ Phiến là “người đàn bà đằng sau bộ Văn Học Miền Nam 1954-75.” Nhưng tưởng cũng nên ghi nhận thêm ở đây, một số khuôn mặt bằng hữu khác đã cung cấp các bộ sách tiếng Việt giai đoạn 1954-75 từ các thư viện Ðại học Pháp, Mỹ giúp anh Võ Phiến tư liệu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam. Như Ðặng Tiến từ Âu Châu, Trần Huy Bích qua liên thư viện Ðại Học UCLA, Ðỗ Văn Gia từ Ðại Học Cornell, họa sĩ Võ Ðình và trước đó từ 1983, học giả Huỳnh Sanh Thông từ Ðại Học Yale (dịch giả The Tale of Kiều), là người giới thiệu Võ Phiến xin được grant/ trợ cấp từ Chương Trình Nghiên Cứu Ðông Dương thuộc Ủy Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội Hoa Kỳ (Indochina Studies Program, Social Science Research Council).
Và khách tới thăm thường ở lại ăn trưa với anh chị Võ Phiến. Bữa ăn gia đình do chị Võ Phiến chăm sóc, đôi khi có thêm một hai món khách đem tới. Cho đến nay, có một món chị Võ Phiến cho ăn không thể nào quên, đó là bánh tráng thuần túy Bình Ðịnh nhúng nước, chấm với nước mắm chanh ớt. Chanh thì có sẵn trên cây, chén nước mắm nhỉ đỏ au những lát ớt cũng hái từ vườn nhà. Món ăn giản dị và lạ miệng như vậy mà ai cũng lấy làm ngon, và khách cảm thấy ngon hơn nữa khi chủ nhà dí dỏm liên hệ món bánh tráng xứ Nẫu tới chiến thắng của vua Quang Trung, bánh tráng đã được dùng như lương khô trong cuộc hành quân thần tốc từ Nghệ An tiến ra Thăng Long dẹp tan 20 vạn quân Thanh.
Nói chuyện với Ðặng Tiến 1998
Ngày 11 Tháng Tư 1998, anh Võ Phiến đã gửi cho tôi bản photocopy 3 trang viết tay bài nói chuyện với Ðặng Tiến kèm theo ít dòng ghi chú: “Thưa anh, đây là bản soạn, không phải nguyên văn lời nói. Khi nói có lời Ðặng Tiến xen vào đôi chỗ. Theo lẽ thì phát thanh vào 28-10-1998. Không biết rồi có đúng vậy không.” Thân, Võ Phiến
Ðặng Tiến bút hiệu Nam Chi, cây bút phê bình văn học từ cuối thập niên 1950, là “bạn cựu” của nhà văn Võ Phiến [bạn cựu là chữ của Võ Phiến để chỉ những cố tri], Ðặng Tiến với Võ Phiến như Bá Nha Tử Kỳ, Ðặng Tiến liên tục theo dõi và rất tâm đắc với những thành tựu văn học của Võ Phiến rất sớm từ 1954 tới mãi về sau này, và cũng đã có rất nhiều bài phê bình điểm sách của Võ Phiến.
Riêng tôi, không được nghe buổi phát thanh ấy, nhưng nếu có thì nội dung chắc sẽ không khác với bản gốc viết tay của anh Võ Phiến. Qua anh Phạm Phú Minh, email liên lạc với Ðặng Tiến hiện ở Pháp, anh trả lời là hoàn toàn không nhớ. Tôi không ngạc nhiên vì cũng đã 17 năm qua rồi. Tiếp đó tôi gửi phóng ảnh 3 trang viết tay của Võ Phiến buổi nói chuyện với Ðặng Tiến, với hy vọng anh ấy có thể sẽ nhớ ra và cho tôi biết thêm chi tiết. Nhưng rồi ba ngày sau cũng vẫn Ðặng Tiến trả lời: “Gửi NTV: Tôi không nhớ ra, sẽ moi trí nhớ trả lời anh sau. Giữ liên lạc. ÐT”
Với anh Võ Phiến, câu chuyện 17 năm trước thì không hy vọng gì anh còn nhớ, tôi vẫn ghi lại đây nội dung buổi nói chuyện rất ngắn ấy, với 3 trang viết tay [chỉ có 938 chữ] như một chút tư liệu văn học, có giá trị như một Tổng Quan về Văn Học Miền Nam giai đoạn 1954-75.
“Thưa anh [Ðặng Tiến],
“Cuối thời tiền chiến, ông Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một thời kỳ văn học 30 năm của Việt Nam. Trong mọi bộ môn sáng tác bằng văn xuôi ông chỉ đếm được ba người ở Nam phần và Trung phần (VP ghi chú thêm bằng bút chì bên lề: Hồ Biểu Chánh, Thanh Tịnh, Nguyễn Vỹ). Tất cả đều viết truyện. Về bộ môn kịch, ký, tùy bút... không có ai cả.
“Cuối thời 1954-75, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm riêng về bộ môn tiểu thuyết trong 20 năm ở Miền Nam. Ông bảo số người viết truyện xấp xỉ 200; trong số ấy trên dưới 60 người có giá trị. Giả sử có ai ngờ vực Cao Huy Khanh quá nặng tình bè bạn, và ai đó hạ số ước lượng xuống còn một nửa - tức 30 tiểu thuyết gia thì 20 năm này cũng gấp 10 lần 30 năm trước. Ấy là chưa kể đến những tùy bút gia, kịch tác gia của thời kỳ sau.
Thủ bút của nhà văn Võ Phiến. |
Về mặt khác, hồi tiền chiến ở Trung phần - từ Phú Yên vào đến Bình Thuận - chưa có nhà văn nhà thơ nổi tiếng; và ở khắp các tỉnh Nam phần - ngoài ông bà Ðông Hồ ra - cũng chưa thấy vị nào tiếng tăm rộng rãi trên văn đàn. Nói vậy là căn cứ theo ông Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh.
“Thế rồi trong khoảng 20 năm sau 1954 lần lượt xuất hiện những văn thi sĩ tên tuổi ở Phú Yên (VP ghi chú thêm: Võ Hồng), ở Ninh Thuận Bình Thuận (VP ghi: Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Ðức Sơn), ở Cà Mau (VP ghi: Sơn Nam), Long Xuyên (VP ghi: Nguyễn Hiến Lê), ở Gia Ðịnh (VP ghi: Tô Thùy Yên), Vĩnh Long (VP ghi: Nguyễn Thị Thụy Vũ), Sóc Trăng (VP ghi: Vương Hồng Sển)... Số văn nhân thi sĩ tăng cao chừng ấy, địa bàn văn học nghệ thuật mở rộng đến chừng ấy, như vậy là một đóng góp.
***
“Một đóng góp khác là cái tinh thần tự do, phóng khoáng của thời kỳ văn học này. Thiên hạ nói nhiều về sự đàn áp tinh thần trong những thời ngoại thuộc: hoặc thuộc Tàu, hoặc thuộc Tây. Thực ra, không cứ những thời ấy, ngay lúc nước nhà độc lập, các chế độ quân chủ phong kiến hay chế độ dân chủ cộng hòa ở ta cũng không dung thứ thái độ khích bác nhà cầm quyền. Ngay khi độc lập dân chủ, vẫn thường chỉ có một cái tự do được ban phát rộng rãi, là tự do ca ngợi bề trên.
“Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo...
“Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá.
“Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.
***
“Sau tính cởi mở tự do, chúng ta có thể chú ý đến một đóng góp nữa. Tôi muốn nói về hiện tượng suy tưởng triết lý ở Miền Nam trong thời kỳ 1954-75. Ðến cuối thời tiền chiến, tiểu thuyết ở ta đã có trên dưới mười loại, trong đó có những loại tâm lý, loại luân lý, nhưng khuynh hướng triết lý thì bấy giờ chưa có trong tiểu thuyết. Qua thời kỳ 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam các băn khoăn triết lý xuất hiện đồng loạt trên nhiều địa hạt sáng tác: trong tiểu thuyết, trong thi ca, trong kịch bản, trong tùy bút. Có lúc triết lý tràn lan như một món thời thượng; và nó bị chế giễu.
“Tuy vậy nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc đang chết hàng triệu người vì sự bất đồng ý thức hệ, bất đồng quan niệm sống. Vào lúc ấy sao có thể không suy nghĩ về lẽ sống, sao có thể điềm nhiên phó thác tất cả cho lãnh đạo? Mặt khác, lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng mới đang gây xáo động lớn ở Tây Phương, phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta có một tầng lớp trí thức nhạy bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.
***
“Nền văn học 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam trong thời gian qua bị ém giấu, xuyên tạc. Nó gặp một chủ trương hủy hoại, gặp những bỉ báng hồ đồ. Nó chưa được mấy ai lưu tâm tìm hiểu, phán đoán cách đứng đắn, tử tế. Những điều tôi vừa nêu ra chắc chắn còn thiếu, còn sai còn cạn cợt. Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.
[Xin chào anh Ðặng Tiến. Xin chào quí vị thính giả.]” Võ Phiến, 10-1998
Nhà văn Võ Phiến (trái) và Ðặng Tiến. |
Bộ Văn Học Miền Nam 1954-75
Khi Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến là vào thời điểm tháng 10 năm 1998, chỉ một năm trước khi Võ Phiến hoàn tất toàn tập bộ Văn Học Miền Nam [với tập I là Văn Học Miền Nam Tổng Quan xuất bản 1986 và tập cuối cùng là Bút Ký Kịch Miền Nam, xuất bản 1999]. Tưởng cũng cần lưu ý câu phát biểu cuối của nhà văn Võ Phiến: “Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.”
Như vậy có thể nói, cho dù Võ Phiến đã phải lao động bền bỉ suốt 15 năm [1984-1999] để hoàn tất bộ sách Văn Học Miền Nam nhưng chính ông chưa hề tự coi đó là một công trình hoàn hảo nên vẫn ao ước việc đánh giá nền văn học 1954-75 cần được bắt đầu nghiêm chỉnh.
Cho dù bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến có những hạn chế đưa tới nhiều tranh cãi khá gay gắt. Người ta đã nặng lời trách ông về những phần thiếu sót trong bộ sách ấy: như khi ông đã gạt một số tên tuổi văn học của thời kỳ 1954-75 ra khỏi bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan, rồi cả cách ông phê bình các nhà văn, nhà thơ được ông chọn đưa vào sách cũng bị ông sử dụng cái sở trường văn phong tùy bút/ nay thành sở đoản để châm biếm mỉa mai cá nhân với nhiều thiên lệch.
Nhà văn Mặc Ðỗ nhóm Quan Ðiểm thì thật sự bất bình, Mai Thảo nhóm Sáng Tạo trong lần trò chuyện cuối cùng với Thụy Khuê Tháng Bảy 1997 cũng không kềm được cảm xúc nói tới “bọn Vua Lê Chúa Trịnh,” và nói thẳng: “Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được. Ðại khái như phê bình văn học, đối với tôi thì không được. Văn Học Miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp văn hay.” (2)
Nhưng khách quan mà nói, ngòi bút Võ Phiến cũng không thiếu phần tự trào, và cả châm biếm bản thân mình. Khi trả lời phỏng vấn Lê Quỳnh Mai trong chương trình Văn học Nghệ thuật đài TNVN Montréal 29-10-2000, nhà văn Võ Phiến đã không ngại khi ví mình như một Xuân Tóc Ðỏ của Vũ Trọng Phụng: “Nói tới sự may mắn, chắc chị còn nhớ tới Số Ðỏ của Vũ Trọng Phụng, nếu tôi có được một số độc giả chú ý, chẳng qua cũng như anh chàng Xuân Tóc Ðỏ trong truyện ấy thôi.” (4)
Bản thân Võ Phiến cũng đã biết rất rõ phản ứng của giới cầm bút về bộ sách Văn Học Miền Nam. Trong thư nhà văn Võ Phiến gửi Lê Thị Huệ Gió-O ngày 16 Tháng Hai 2001:
“Anh chị em cầm bút thời 1954-75 ở Miền Nam, nhiều người phiền trách tôi về bộ sách này lắm. Tôi chịu trận thôi. Viết mà cốt cho ai cũng... thương (!) thì thành ra cái quái gì.” (3)
Nếu độc giả bình tâm đọc lại Lời Nói Ðầu của cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ Phiến đã bàn qua về “lý do biên soạn cuốn sách đầy những lôi thôi thiếu sót này.” [sic]
Ông đã giải thích rất rõ:
“Trước hết mình không phải là một nhà phê bình nhà biên khảo gì ráo mà tự dưng xông ra làm công việc biên khảo phê bình là chuyện không nên. Hơn nữa hoàn cảnh thật là khó: xung quanh không có tài liệu mà mình thì không có điều kiện để đi tìm tài liệu, lấy gì tham khảo?”
Ông cũng tiên đoán được cả những hệ lụy như: “viết cái gì có liên quan đến kẻ khác, có chê khen người nọ người kia mà viết qua quýt thì bị mắng mỏ xỉa xói tưng bừng là cái chắc.”
Cân nhắc như vậy, nhưng ông vẫn viết tiếp:
“Ấy vậy mà nghĩ đi nghĩ lại chán chê rồi tôi lại quyết định cứ viết cuốn sách này. Trước hết là vì chỗ nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn. Thật vậy, thời kỳ 1954-75 gặp cái rủi ro hiếm thấy, là trong suốt hai mươi năm trời không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp. Nhưng trước khi có sự công bình, sự sáng suốt, hãy chỉ mong được chút lưu tâm...
Thủ bút Võ Phiến, bản soạn bài nói chuyện với Ðặng Tiến, Tháng Mười, 1998. |
“Thời kỳ 1954-75: câu chuyện hủy diệt văn hóa phẩm Miền Nam từ 1975 đến nay không ai là không biết. Ta đã không thể ngăn chận được việc phá hủy, không thể bảo tồn được cái thành tích văn học nọ, thì ngay lúc này cũng nên có một tổng kết, một kiểm điểm sơ lược, để về sau những ai lưu tâm còn có chút căn cứ sưu khảo. Không thế, sao đành?”
Vì chỗ “nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn... rốt cuộc đành miễn cưỡng viết cuốn sách này trong những điều kiện rất không nên viết. Viết như là một sơ thảo, một bản nháp, một gợi ý, nhắc nhở, một cách nêu vấn đề, để sau này những người có đầy đủ tư cách và điều kiện sẽ viết lại một cuốn xứng đáng.” (1)
Biết thiếu sót, biết trước có những hạn chế nhưng chính Võ Phiến, trái với bản chất thâm trầm và thận trọng cố hữu, Võ Phiến vẫn liều lĩnh - như một “risk taker,” ẩn nhẫn làm một công việc tốn rất nhiều công sức và cả nhiều rủi ro như thế. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trong suốt hơn 15 năm từng bước hoàn thành công trình Văn Học Miền Nam với hơn ba ngàn trang sách ấy, Võ Phiến vẫn đang là một công chức Sở Hưu Bổng làm việc full time cho quận hạt Los Angeles, như vậy là ông đã phải làm việc ngoài giờ và những ngày cuối tuần. Võ Phiến về hưu Tháng Bảy năm 1994, ông tiếp tục viết thêm 5 năm nữa để hoàn tất toàn bộ Văn Học Miền Nam 1999. Nếu không có hùng tâm, với công sức của một cá nhân khó có thể làm được như vậy.
Nhưng để rồi khi viết xong, chính Võ Phiến không khỏi ngẩn ngơ tự hỏi: “Cái đã viết ra đó là cái gì vậy? Là lịch sử hai mươi năm văn học Miền Nam chăng? Là kiểm điểm phê bình nền văn học Miền Nam chăng? 3/4 rõ ràng nó không xứng đáng là lịch sử, là phê bình gì cả. Nó không có cái tầm tổng hợp rộng rãi, nó thiếu công phu suy tìm và phân tích đến nơi đến chốn về bất cứ môn loại nào khuynh hướng nào. Chẳng qua chỉ có những nhận xét rất khái lược, liên quan đến nền văn học và các văn gia một thời mà thôi.” (1)
Bao nhiêu phê phán từ trong và ngoài giới văn học đối với công trình Văn Học Miền Nam 1954-75 của Võ Phiến, thực ra cũng không có nghiêm khắc hơn phần “tự kiểm” của chính Võ Phiến trong Lời Nói Ðầu, Văn Học Miền Nam Tổng Quan tập 1.
Công trình nghiên cứu của Võ Phiến cần được đánh giá đúng vào giai đoạn thập niên đầu ngay sau 1975 với hoàn cảnh ra đời của nó: khi mà trong nước có cả một sách lược hủy diệt toàn diện, xóa sổ nền văn học Miền Nam 20 năm ấy, công trình của Võ Phiến như một nỗ lực sưu tập và cứu vãn/ rescue mission, nên xem như một khởi đầu đáng được trân trọng.
Ai cũng hiểu bộ sách Văn Học Miền Nam “không chuyên nghiệp” của Võ Phiến sẽ không bao giờ là bộ sách phê bình văn học duy nhất hay cuối cùng, nhưng đó là một bước tạo thuận/facilitation khởi đầu, một roadmap dẫn tới cả một khối tài liệu đồ sộ để tham khảo, nó như một giàn phóng cho những công trình hoàn chỉnh kế tiếp. Ðây chính là phần trách nhiệm và nghiệp vụ của giới phê bình chuyên nghiệp, họ cần có hùng tâm để “bắt đầu nghiêm chỉnh“việc đánh giá nền văn học 1954-75 bằng những tác phẩm xứng đáng thay vì cứ mãi xoáy nhìn vào “nửa phần vơi” của bộ sách Võ Phiến.
Một câu hỏi được đặt ra: ai trong chúng ta có thể “bắt đầu nghiêm chỉnh” một công trình nghiên cứu như vậy? Một câu hỏi tiếp theo: ai sẽ thừa kế kho tư liệu phong phú mà anh Võ Phiến có được trước khi rơi vào quên lãng?
Lê Ngộ Châu hòa giải
Năm 1994, anh Lê Ngộ Châu và con gái sang Mỹ. Với 18 năm điều hành tờ Bách Khoa, anh có nhiều thân hữu: Võ Phiến có lẽ là người anh thân thiết nhất. Trong chỗ rất riêng tư, khi biết giữa anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác có “vấn đề” trong sự chuyển tiếp từ tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học.
Nguyễn Mộng Giác với Võ Phiến vốn là người cùng tỉnh. Võ Phiến tâm sự: “Gặp một tác giả đồng tỉnh là một niềm vui mừng, lại phát giác ra ở tâm hồn tác giả nọ một số đặc điểm địa phương đã làm nên cái đẹp của tác phẩm thì lý thú biết bao! Làm sao cầm lòng được? Phải nói về Bình Ðịnh chứ chị!” (4)
Anh Lê Ngộ Châu trong chuyến thăm California (1994). Từ trái: Ðỗ Hải Minh/Dohamide, Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến. |
Nhưng rồi cái tình đồng hương ấy cũng không tránh được trục trặc trong vấn đề điều hành tờ Văn Học và chọn bài vở khi mà Võ Phiến còn đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn Mộng Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm thấy ngay được sự “nghẽn mạch” giữa hai người. Anh Lê Ngộ Châu sốt sắng đóng vai “hòa giải” - vẫn chữ của Lê Ngộ Châu.
Như một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt tiếp đón anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse trên đường Bellflower, Long Beach nơi tôi cư ngụ. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác; riêng Lê Tất Ðiều đưa anh Võ Phiến tới nhưng bận nên không tham dự; và có khoảng hai chục thân hữu quen biết anh Lê Ngộ Châu và tạp chí Văn Học có mặt hôm đó: các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc Chi, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy... Chỉ riêng cái tình “tha hương ngộ cố tri” ấy, qua những trao đổi, như từ bao giờ anh Lê Ngộ Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên dáng, anh đã như một chất xi-măng nối kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao, trong suốt 18 năm tới 1975, anh Lê Ngộ Châu đã điều hợp được tờ Bách Khoa vốn là một vùng xôi đậu phức tạp như vậy.
Ðó là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ Châu, cũng như ông giám đốc Nhà sách Khai Trí, cả hai đều chọn trở về sống ở Sài Gòn. Năm 2006, trong dịp đi thăm Ðồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại anh Lê Ngộ Châu nơi tòa soạn Bách Khoa, 160 Phan Ðình Phùng ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc tới buổi gặp gỡ hôm đó. Khi hỏi anh về cuốn hồi ký 18 năm tờ báo Bách Khoa, anh Lê Ngộ Châu cười dí dỏm trả lời:
“Anh Vinh hỏi Võ Phiến có cho tôi viết không?” Anh Châu muốn nói tới những chuyện ngoài văn học diễn ra ở tòa soạn Bách Khoa trong suốt thời kỳ ấy. Khi trở lại Mỹ, chỉ ít lâu sau được tin anh Châu mất ngày 24 Tháng Chín 2006, anh thọ 84 tuổi.
Võ Phiến 75 tuổi, quá mức ước ao
Tháng Mười Hai cuối năm 1998, tôi nhận được thiệp chúc xuân của nhà văn Võ Phiến, anh viết:
“Một năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 75: quá mức ước ao! Anh sắp tới lục tuần chứ ít sao, lục tuần là tuổi tung hoành múa bút khỏe lắm. Xin chúc anh chị sang năm mới được mọi sự an lành. Riêng anh nên có sách mới xuất bản. Thân mến, Võ Phiến”
(Từ phải): Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Lê Tất Ðiều. (California 1994) |
Thực sự anh Võ Phiến lúc đó mới 73 tuổi, anh sinh năm 1925, tuổi Ất Sửu.
Cả ba bạn văn: nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà báo Như Phong và anh Lê Ngộ Châu cùng tuổi Quý Hợi (1923), hơn Võ Phiến hai tuổi. Doãn Quốc Sỹ vẫn gọi đùa Lê Ngộ Châu là Lê Quý Hợi và anh ấy là Doãn Quý Hợi. Ba ông Quý Hợi thì nay chỉ còn một Doãn Quốc Sỹ. Nhà báo Như Phong mất 2001 tại Virginia, chủ nhiệm Lê Ngộ Châu mất 2006 tại Sài Gòn.
Cũng vẫn thư nhà văn Doãn Quốc Sỹ gửi anh Lê Ngộ Châu [29/08/1996] có nhắc tới Võ Phiến mà anh gọi đùa là cụ Võ Bình Ðịnh: “Ðược xem bức ảnh cụ Võ Bình Ðịnh mặc màu áo sơ-mi rất trẻ, nhìn ảnh cụ cười mà tưởng như nghe thấy cả tiếng cười hóm hỉnh của cụ điểm xuyết trong câu chuyện tại tòa soạn Bách Khoa ngày nào.”
Trước ngưỡng tuổi cổ lai hy, Võ Phiến đã trải qua hai cuộc mổ tim lớn / Coronary Artery Bypass Surgery; lần thứ nhất 1985 khi Võ Phiến mới 60 tuổi, anh bắt đầu bị ám ảnh về cái chết:
Ra đi tuổi chẵn năm mươi,
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê... (1986)
Bảy năm sau 1992, Võ Phiến 67 tuổi lại phải bước vào cuộc mổ tim lần thứ hai khó khăn và phức tạp hơn. Anh bi quan và bị ám ảnh nhiều hơn về cái chết.
Anh đã đặt bút viết về Cái Sống Hững Hờ:
“Bản thân tôi trước đây có lần phải vào bệnh viện chịu mổ xẻ, tôi ngậm ngùi viết những lá thư gửi lại bạn bè, nhờ một văn hữu thân tình trao giúp cho, sau khi mình...ra đi. Hóa ra rồi sau cuộc giải phẫu tôi tiếp tục sống nhăn. Sống và ngượng ngập vu vơ.
“Năm tháng trôi qua. Quá bát tuần, tôi lén lút hướng một chút tưởng tượng về cái kết thúc của đời mình. Chắc là gần thôi. Liếc mắt phớt qua tí ti, sợ gì? Liếc qua xong rồi liếc lại, tôi ngạc nhiên không nhận thấy một xúc động bất thường nào xảy ra cả. Cuộc sống đang tiếp diễn vẫn tiếp diễn đều đều...
“Tạo Hóa có lòng lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh lòng người. Tuổi người càng cao, lòng người càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại một sự hững hờ: ‘Chết? ai mà khỏi? Việc gì phải sợ?’ Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi cho được vừa huýt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những bước thong thả, hững hờ. Ðại khái thế thôi.”
Thủ bút Võ Phiến - Thư gửi Ngô Thế Vinh. |
Khi chị Võ Phiến cũng nghỉ hưu, không còn nhu cầu ở gần sở làm nữa, năm 2003 anh chị dọn về vùng gần Little Saigon. Ngôi nhà mới xinh xắn hai tầng trong một cư xá yên tĩnh cuối đường số 5 thành phố Santa Ana, cũng có một khoảnh vườn rất nhỏ với những cây hoa hồng ở bờ dậu, và một ít cây trái; vừa sức để chị Võ Phiến bước qua tuổi 70 vẫn còn có thể vui thú điền viên và chăm sóc. Ngoài những sách tái bản như Võ Phiến Toàn Tập, Cuối Cùng được coi là tác phẩm sau cùng của Võ Phiến hoàn thành nơi ngôi nhà mới, viết xong 2007 NXB Thế Kỷ 21 cho in năm 2009.
Võ Phiến bước vào tuổi 90
Sinh ngày 20 Tháng Mười, 1925, sáu tháng nữa, 2015 Võ Phiến vừa tròn 90 tuổi. Có lẽ anh là một trong số ba nhà văn Miền Nam ở hải ngoại sống thọ nhất, chỉ sau nhà văn Mặc Ðỗ 98 tuổi [sinh năm 1917] sống ở Austin Texas, nhà văn Doãn Quốc Sỹ 92 tuổi [sinh năm 1923] hiện sống ở Nam California.
Lại vẫn dùng một câu viết 17 năm trước trong một thiệp xuân của Võ Phiến 1998: “Một năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 90: quá mức ước ao!”
Và cuộc sống của Võ Phiến “vẫn cứ tiếp diễn đều đều.” Chị Viễn Phố, vợ anh vẫn che dù cho anh đi bộ mỗi ngày với walker có bánh xe lăn. Nhìn chung theo khía cạnh y khoa, ở nhóm tuổi 90 ấy, thể lực của anh Võ Phiến được xem là khá tốt cho dù trí tuệ anh đã có nhiều phần lãng đãng, cái lãng của người cao tuổi / senile dementia. Anh không nhớ hết những khuôn mặt thân quen nhưng với vài người “bạn cựu” - vẫn chữ của Võ Phiến - thân thiết lâu năm như Hoàng Ngọc Biên, Ðặng Tiến, Lê Tất Ðiều... anh vẫn giữ được một trí nhớ xa/ remote memoryqua các cuộc nói chuyện điện thoại gần đây và cả ở những lần gặp mặt.
Vậy mà đã 40 năm, với hai lần Võ Phiến khóc khi di tản khỏi Việt Nam: một lần ở tòa soạn báo Bách Khoa trên đường Phan Ðình Phùng, lần thứ hai trên con tàu Challenger khi rời đảo Phú Quốc. (5) Bốn mươi năm ấy 1975-2015, với bao nhiêu nước chảy qua cầu, như một nhà văn lưu đầy Võ Phiến vẫn sống làm việc trong sự cô đơn buồn bã. (6)
Bài viết Tháng Tư này, gửi tới nhà văn Võ Phiến khi anh bước vào tuổi thượng thọ 90, ngưỡng tuổi 90 xưa nay là hiếm. Cũng gửi tới hai anh chị Võ Phiến và Viễn Phố lời chúc “cây đời thì vẫn cứ mãi xanh tươi” (7).
Tham khảo:
1) Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Lời Nói đầu. Võ Phiến. Nxb Văn Nghệ 1986. http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3056
2) Lần trò chuyện cuối cùng với Mai Thảo. Thụy Khuê 07/ 1997
http://hopluu.net/a1153/noi-chuyen-voi-nha-van-mai-thao-va-tran-vu
3) Lê Thị Huệ. Võ Phiến, Văn Chương Mất Trí Nhớ. 11-2012
http://www.gio-o.com/Chung/LeThiHueVoPhien.htm
4) Lê Quỳnh Mai phỏng vấn nhà văn Võ Phiến. Tác giả, với chúng ta. Nxb Khôi Nguyên, Montréal Canada 2004.
5) Ngô Thế Vinh, Bốn Mươi Năm Dương Nghiễm Mậu và Tự Truyện Nguyễn Duhttp://damau.org/archives/35745
6) John C. Schafer Võ Phiến and the sadness of exile. Southeast Asia Publications, Center for Southeast Asian Studies, Northern Illinois University, Mar 1, 2006
7) Johann Wolfgang von Goethe. All theory, dear friend, is gray, but the golden tree of life springs ever green. Faust pt.1 (1808) 'Studierzimmer'
----
(*) Bài viết được đăng trên Diễn Ðàn Thế Kỷ Online, ngày 26 Tháng Tư, 2015.
-
0 nhận xét:
Post a Comment