Friday, June 5, 2015

THẦY TÔI…Hòa Thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN

bài của Phạm Trần Anh, Phật Đản 2559 (Dương Lịch 2015)


Hòa Thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN, Nguyên Chánh Thư ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN”


Trong đời người, mỗi chúng ta đều có một vị thầy, một vị ân sư mà suốt đời chúng ta không thể nào quên. Như một cơ duyên nghiệt ngã nhưng tràn đầy ân nghĩa, tôi gặp võ sư Chưởng môn Lê Sáng, ông anh của tôi và cũng được gặp ân sư của mình, cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận trong trại tù Z30A ở chân núi Chứa Chan, chốn tận cùng của địa ngục trần gian với mồ hôi, nước mắt và cả máu của anh em tù nhân chính trị và tôn giáo Việt Nam.

Thông thường khi những chuyến xe bịt bùng từ Chí Hòa đến trại Z30A thì anh em tù dường như vui hẳn lên vì sẽ gặp những bạn chiến đấu cùng cảnh ngộ. Tên cán bộ trực trại ra lệnh cho thi đua cấm các trại viên tiếp xúc với tù mới được loan báo tới các phòng giam nên anh em càng háo hức hơn. Thế nhưng, một vài anh em đã báo cho tôi về chuyến chuyển tù đặc biệt này gồm toàn nhà sư thuộc giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất thì tôi đã hình dung phần nào vì trước đó, chúng tôi đã nhận được bản tin về Lực Lượng Dân Tộc Kháng Chiến Giải Cứu VN ra tòa.
Thế là ngày hôm sau, TT Thích Thiện Minh và tôi sang vấn an sức khỏe Hòa Thượng. Thật không còn gì vui hơn khi được diện kiến HT, người mà trước đây tôi chỉ được đọc qua những Thông Điệp nhân ngày Phật Đản nhưng hết sức ngưỡng phục văn phong từ ái bao dung, tràn đầy tự tình dân tộc và đạo pháp.

Phạm Trần Anh, 2015

Suốt đêm qua, tôi suy nghĩ mãi mới làm xong bài thơ “Nhất Nhật Tại Tù” để ngày mai sang kính tặng Hòa Thượng. Vừa bước vào, tôi chắp tay mô Phật rồi ngước mắt lên thì bắt gặp ánh mắt hiền từ tinh anh trên khuôn mặt đôn hậu nhưng xanh tái, hậu quả của những ngày biệt giam xà lim cung cán. Tôi đưa thầy xem bài thơ “Nhất nhật tại Tù” và nói thác là của một ông cụ làm.

“Nhất nhật tại tù nhất nhật âu, Kỷ niên vong quốc kỷ niên sầu. Nam nhi tâm huyết sơn hà thệ, Ái quốc ưu dân chí bạch đầu…”.

Thầy liếc qua rồi cười nói rằng “chắc là ông cụ non này chứ còn ai vào đây nữa… Tôi vội nói con mạo muội làm bài thơ này diễn tả tâm trạng của con để kính tặng Thầy đó… Con diễn Nôm để thầy nghe

“Mỗi ngày tù tội một lo âu, Bao năm mất nước, bấy năm sầu. Một lòng thề nguyện cùng song núi, Yêu nước Thương dân tới bạc đầu…”.

Thầy rất vui khi gặp chúng tôi cùng chung lo việc nước nên đã đặt pháp danh Minh Đức cho tôi trong trại tù và nhắc nhở
“Anh phải chu toàn bổ phận của một con dân đất Việt và một Phật tử chân chính vì Đại học tại minh đức, tại Tân dân chỉ ư chí thiện…nhớ nhé Minh Đức”.

Chúng tôi thường lẻn sang thăm thầy vào những giờ trưa vắng vẻ để nghe thầy giảng dạy, có TT Thiện Minh làm Thị giả lo cho Hòa Thượng từ miếng ăn, thức uống nên một thời gian sau, sức khỏe cũng phục hồi được phần nào.
Một buổi trưa, HT nói TT Thiện Minh ra ngoài sân sau rồi HT đọc toàn văn bản tuyên bố dài trên 4 ngàn chữ cho tôi nghe. Bộ nhớ của HT thật phi thường, nhớ từng chữ từng câu trong bản Tuyên Ngôn của Lực lượng Dân tộc Kháng chiến Giải Cứu Việt Nam. Văn kiện này, HT ký tên Lý Vạn Thắng (Thích Đức Nhuận) công bố ngày 20-7-1977 là một bản Cáo trạng chế độ Cộng sản vô thần với những lời hiệu triệu kêu gọi toàn dân Việt Nam đứng lên lật đổ chế độ bạo tàn bất nhân Việt gian CS như sau:

"Nạn nước không từ ngoài tới, mà bi thảm thay, lại do chính con người Việt Nam, mất linh hồn, chối bỏ dân tộc, từ chối giá trị làm người, cam tâm làm tôi tớ cho ngoại bang. Con người ngu tồi, nhiều tham vọng, và tội lỗi, tên giặc nước kinh tởm nhất lịch sử Việt Nam là Hồ Chí Minh và bè lũ. Bọn chúng đã xô đẩy đồng bào đất nước ta vào cuộc chiến tranh lửa đạn, một cuộc chiến tranh tàn bạo, nhơ bẩn, phi lý, chỉ nhằm phục vụ ý [thức] hệ và quyền lợi của khối Quốc tế Vô Sản do "mẫu quốc"…

"Đã hơn ba mươi năm, toàn thể dân ta từ Bắc chí Nam phải triền miên sống trong cảnh loạn lạc, mất an ninh, sống trong khổ cực, đói rét, lầm than, cơm không có đủ ăn, áo quần không đủ mặc, và nén lòng nhận chịu hết mọi sự rủi ro bất trắc xẩy đến bất cứ lúc nào, khiến cho cha con, chồng vợ, anh em, thân thuộc ly tán mỗi người mỗi ngả."…

"Nỗi chết chóc thường xuyên ám ảnh tâm thức con người. Tất cả thảm trạng hãi hùng ấy đều do bọn quỉ đỏ gây ra cả. Chúng cuồng tín, gian ác và lừa bịp một cách trắng trợn, lừa bịp không chỉ đối với toàn dân Việt Nam, mà lừa bịp cả nhân dân thế giới nữa. Chúng che dấu sự thực và rất sợ sự thực. Chúng núp dưới danh nghĩa dân tộc kháng chiến làm cách mạng và đưa ra chiêu bài "độc lập, tự do, hạnh phúc" để lừa dối, mê hoặc dân ta. Như đồng bào đã thấy, và đã thể nghiệm trong cuộc sống đau thương chất ngất hàng ngày…"

"Nói rằng độc lập? Thì sự thực hiển nhiên [ngày nay] đất nước dân tộc Việt Nam, về tổ chức bị chúng áp đặt đứng trong khối quốc tế vô sản xã hội chủ nghĩa, và về tư tương hoàn toàn lệ thuộc bởi chủ nghĩa Marx - Lénine. Thử hỏi còn đâu nữa danh nghĩa quốc gia, tinh thần tự chủ dân tộc....
Một quốc gia thực sự độc lập điều kiện tiên quyết và trước nhất là độc lập về tư tưởng, ý hệ, nhưng ngay ở điểm căn bản này đã không có làm sao có thể tự hào xưng là độc lập."

Tự do thì sao, bản Tuyên Ngôn vạch ra:

"Hiện đồng bào mọi giới đang phải nép mình sống cuộc đời tù ngục, mất hết tự do kể cả thứ tự do tối thiểu cần có dành cho con người là quyền cư trú, đi lại, làm ăn sinh sống cũng đã bị nhà nước ngụy quyền cộng sản hạn chế, ngăn cấm”.

Và hạnh phúc đã có chưa?
"Đó chỉ là mỹ từ tượng, trên thực chất con người chỉ còn biết lầm lũi sống trong tủi hổ nhọc nhằn, nghèo đói, lo âu, sợ sệt, buồn nản, lừa đảo, dối trá, triền phược và bất an. Chúng cai trị dân ta với cả kế sách sâu độc là "bần ngu hóa" và "nô lệ hóa" con người, biến con người thành thứ công cụ của lao động sản xuất. Chúng giẫm đạp lên thân phận con người, bóc lột đến tận xương tủy đồng bào và coi dân như cỏ rác. Nhưng chúng lại khéo giả vờ đề cao lòng yêu nước, thương dân, kỳ thực, chúng đã bán nước và làm khổ nhân dân. Toàn thể dân Việt giờ đây đang gục lịm trong thân phận tù đày, nô lệ dưới gông cùm của chế độ cộng sản tàn bạo phi nhân."
"Chúng toan tính làm lại lịch sử nước ta, chúng đốt sách, xuyên tạc sự thực lịch sử, bôi nhọ tiền nhân qua lối nhìn duy vật sử quan cận thị của học thuyết Marx – Lénine. Chúng mù quáng tôn vinh đảng, bác Hồ của chúng là trên hết. Chúng có chủ mưu đồng hóa nguồn văn hóa Việt với chủ nghĩa cộng sản, cốt làm đổi thay cõi sống tâm hồn, ý thức, tình cảm của mỗi người dân mà sự thực phũ phàng này, biểu hiện rõ rệt nhất: bằng nếp suy tư một chiều, bằng cách thức sinh hoạt phản nhân tính, bằng lối xây dựng con người kiểu thời tiền sử, thậm chí cho đến bản nhạc, lời ca, giọng hát, điệu múa cũng lại bắt chước rập khuôn theo lề lối, hệ thống tổ chức của khối quốc tế vô sản xã hội chủ nghĩa một cách ngờ nghệch, ngu xuẩn. Chúng đang đào xới và nhổ tận gốc rễ nền văn hóa Việt tộc, một cách tận tình, không chút sót thương. Thế mà chúng thường vênh váo, tự đắc khoe khoang coi đấy là sự nghiệp vĩ đại trong cái gọi là "lịch sử giải phóng dân tộc" đầy vinh quang của chúng."

Như một tiên tri, Hòa Thượng đã nhìn thấy ngày tàn của chủ nghĩa Cộng sản từ khi đặt bút ký vào bản Tuyên Ngôn ngày 20-7-1977. Ngài viết:
"Thực sự giờ đây cả dân tộc ta đang phải đối diện với một thế lực vô cùng tàn bạo, khối quốc tế vô sản, bọn đế quốc kiểu mới chuyên thống trị nước ngoài, chúng không trực tiếp chiếm đất đai, mà thi hành sách lược hiểm độc là dùng người Việt trị người Việt. Chúng đào tạo và dậy dỗ cho một thiểu số người Việt mất gốc, ngu muội, ham danh lợi, giả đạo đức, giả yêu nước, chỉ biết cúi mặt tuân hành mệnh lệnh đảng và tuyệt đối tôn thờ chủ nghĩa Marx - Lénine, thứ chủ nghĩa không tưởng, quyết không bao giờ có thể đạt tới đích điểm cả. Huống nữa thuyết ấy đã bị vượt dưới sự nhận thức toàn diện của nhân loại giác ngộ. Quả thật, chủ nghĩa cộng sản hiện nay đang trên đà đổ vỡ. Nó không chỉ đổ vỡ về mặt lý thuyết không thôi, mà đổ vỡ cả về mặt thực tiễn lẫn tổ chức nữa. Phải chăng đây là lẽ tất yếu của chu kỳ lịch sử loài người phải đi tới và đang xẩy ra.".

Thời gian sau, TT Thiện Minh và tôi phải chuyển trại ra trại tù Xuân Phước, nơi được anh em tù gọi là “Thung Lũng của Tử thần”. Khi anh em chúng tôi chuyển về lại Z30A thì HT đã trở về chùa Giác Minh sau 9 năm tù ngục.
Ngày 3-8-1997, do sự can thiệp của tổ chức Ân Xá Quốc Tế, nhà cầm quyền CS phải trả tự do cho tôi sau 20 năm 1 tháng tù. Trong các dịp lễ lớn đông người tham dự tại chùa Giác Minh, tôi đã đến vấn an Hòa Thượng và xin HT viết cho lời giới thiệu tác phẩm Nguồn Gốc Việt Tộc, HT đã viết tay cho tôi lời giới thiệu sau:

“ĐẠI VIỆT SỬ LƯỢC là bộ sử đầu tiên của nước ta do một tác giả vô danh đời Trần biên soạn. Bộ sử này bị giặc Minh tịch thu và bản duy nhất còn lưu trữ trong Tứ Khố Toàn Thư của triều Mãn Thanh sau khi đã bị Tiền Hy Tộ sửa đổi toàn bộ nội dung kể cả đặt lại tên là VIỆT SỬ LƯỢC. Năm 1272 sử gia Lê Văn Hưu đời Trần, viết bộ Đại Việt Sử Ký (hiện nay bộ sử này không còn nữa). Đời Lê, Ngô Sĩ Liên dựa vào Đại Việt Sử Ký để viết bộ Đại Việt Sử Ký toàn thư hoàn thành năm 1479, Lê Quý Đôn viết Đại Việt Thông sử, Ngô Thời Sĩ viết Việt Sử Tiêu án. Đời Nguyễn biên soạn Khâm định Việt sử Thông Giám Cương mục, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược. Tiếp sau đó, có Phạm Văn Sơn, Đào Duy Anh cũng đã viết lịch sử nước Việt từ sơ khai đến cận và hiện đại. Nay Quốc Việt Phạm Trần Anh, một Phật tử trí thức, nối chí các bậc đàn anh đi trước, đã vận dụng trí tuệ bát nhã để viết bộ NGUỒN GỐC VIỆT TỘC, tìm về cội nguồn sử tích họ Hồng Bàng. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy công chúa Âu Cơ sinh ra 100 người con, 50 con theo cha xuống miền ven bể, 50 con theo mẹ Âu lên định cư ở vùng cao Phong Châu và cùng tôn người con cả lên ngôi lấy hiệu là Hùng Vương thứ nhất của nước Văn Lang, cách nay 4878 năm, đã khơi mở một nền văn minh triết Việt Tộc. Tác giả dẫn chứng bằng những sử liệu chính xác, một công trình nghiên cứu đúng đắn, tìm về nguồn cội dân tộc, phục hoạt nền văn minh cổ đại của dòng giống Bách Việt, hợp sáng với nguyên lý Nhân duyên sinh của Đại thừa Phật giáo.
NGUỒN GỐC VIỆT TỘC là một tác phẩm giá trị, tôi xin mời bạn hãy tìm vào nội dung để thưởng thức những cái hay đẹp, những khám phá mới lạ mà từ trước những nhà viết sử trong nước chưa ai đề cập tới. Quốc Việt Phạm Trần Anh đã tìm tòi trong các cổ và tân thư về Khảo cổ học, Khảo tiền sử, Nhân chủng học, Dân tộc học, ngôn ngữ học và nhất là Di Truyền học để hoàn thành tác phẩm biên khảo công phu về nguồn gốc Việt tộc. Tìm về cội nguồn dân tộc cũng chính là tìm về quê cha đất tổ, nơi tổ tiên Việt tộc đã từng dày công vun bón ươm những kỳ hoa, dị thảo, làm vinh hiển cho một nòi giống thông minh vốn tự hào có chiều sâu và bề dày lịch sử của ngót năm nghìn năm Văn hiến chi bang."


Tôi còn nhớ như in, một buổi sáng bất ngờ HT đi taxi lên lều cỏ của tôi trên Lái Thiêu. Sau tuần trà, hai thầy trò đàm đạo, HT nói “Biết anh sắp đi Mỹ, tôi lên đây để mình bàn về tương lai Dân tộc, Đường hướng Cứu Quốc và Kiến Quốc thời kỳ hậu Cộng sản”. Tôi chăm chú lắng nghe…

Khoảng 3 tháng sau, ngày 21-1-2002, nhà thơ Phổ Đức báo tin cho tôi biết là Hòa Thượng đã viên tịch như một tiếng sét đánh ngang tai. Thế là Phật giáo Việt Nam mất đi một vị cao tăng tài giỏi đức độ, một tu sĩ uyên bác, một nhà văn hóa lớn và cũng là một nhà cách mạng dân tộc. Trong lúc xúc động, tôi đã làm bài thơ “Thiền Sư về Cõi Phật” để tiễn biệt Ngài như sau:

Thiền Sư về cõi Phật,
Đuốc Tuệ Đại Từ bi,
Đại hùng và Đại lực,
Lịch sử mãi còn ghi…”.

Kính Bạch Thầy,
Hôm nay nhân ngày giỗ thứ 13 của Thầy, con xin ghi lại những tâm tình của con về vị ân sư một đời hy sinh cho Dân tộc và Đạo Pháp. Con thật hãnh diện khi được biết năm 1945 con sinh ra cũng là năm dân tộc Việt mất đi một nhân tài kiệt xuất Lý Đông A mà trước ngày lãnh tụ Duy Dân ra đi, trên bàn chủ tọa cuộc họp bí mật tại Hà Nội có 18 đồng chí có 2 vị Đại Đức trẻ, đó là Đại Đức Thích Đức Nhuận và Đại Đức Thích Quảng Độ, đương kim Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Bạch Thầy, “Đại Học tại Minh Đức tại Tân Dân, tại chỉ ư chí Thiện…”. Nam Mô A Di Đà Phật

Đệ Tử Minh Đức Phạm Trần Anh
Mùa Phật Đản 2559 (DL 2015)



-

0 nhận xét:

Post a Comment