Monday, October 1, 2012

Nhà Văn DOÃN QUỐC SỸ, cựu tù chính trị Việt Nam

Bài của Tạp Chí Văn Học & và các Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong và Đào Trường Phúc / Tư liệu by Tạp Chí Văn Học số 31, tháng 8, 1988 tại Hoa Kỳ / Sưu lục, hiệu chỉnh và lưu trữ by Thư Viện Phạm Văn Thành, tháng 5/ 2015


Từ trái sang phải: Triết gia Phạm Công Thiện, nhà văn Doãn Quốc Sỹ và Thầy Nguyên Siêu
(trong ảnh là buổi ra mắt sách Huyền Thoại Duy Ma Cật của Tuệ Sỹ tại Houston, Texas ngày 04.11.2007 - Photo by Thầy Nguyên Siêu

Thay cho "Hồ Sơ tù nhân" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ


Thư Viện Phạm Văn Thành: Trong tinh thần khơi dòng vận động cách mạng Nhân Quyền tại Việt Nam sau khi chế độ cộng sản đã tồn tại một khoảng thời gian quá lâu quá hãi hùng 40 năm, kể từ hôm nay, chúng tôi cố gắng sưu lục và phục dựng lại Hồ Sơ Nhân Quyền gồm thông tin về các Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã bị chế độ Hà Nội bắt bớ, cầm tù sau tháng Tư đen 1975. Mong bạn đọc theo dõi, góp ý và hỗ trợ những tài liệu -nếu đang có trong tay- cho trang Thư Viện Phạm Văn Thành. Dù chúng tôi đã rất cố gắng phục dựng trong hoàn cảnh và mọi khả năng có thể nhưng chắc hẳn còn nhiều thiếu sót nơi đây. Chân thành cám ơn bạn đọc.

Kính báo

Tháng 5 / 2015

Thư Viện Phạm Văn Thành

Địa chỉ email: facomatora@gmail.com

Dưới đây là những bạn văn của Nhà Văn DOÃN QUỐC SỸ viết về ông mà theo chúng tôi (Thư Viện Phạm Văn Thành), vắn tắt và chân xác hơn cả, khả dĩ thay cho "Hồ Sơ tù nhân" Doãn Quốc Sỹ



Doãn Quốc Sỹ, người anh khả kính

Nguyễn Mộng Giác


Trước mặt tôi là bản tin cho biết ngày 27 tháng Tư năm 1988 vừa qua, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã đưa một số văn nghệ sĩ tên tuổi ra tòa án nhân dân xử tội và kết án tù những người này theo tội danh "liên lạc với nước ngoài, tuyên truyền phản động chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa". Theo bản tin này, nhà văn Doãn Quốc Sỹ bị kết án 9 năm tù, nhà văn Hoàng Hải Thủy bị án 8 năm tù, ca sĩ Khuất Duy Trác 4 năm tù. Hai nhân viên bưu điện làm trung gian chuyển tác phẩm của các văn nghệ sĩ kể trên ra nước ngoài bị tội tòng phạm, mỗi người lãnh án 2 năm tù.

Đối với một độc già bình thường ở một nước dân chủ, bản tin không làm cho ai ngạc nhiên. Những nhà thương điên, những trại lao động khổ sai, những vụ trục xuất, những ruồng xét khủng bố , những trường hợp như Solzenitsyn, Pastemak, Kundera... được báo chí sách vở trên thế giới nói nhiều, đến nỗi người ta chỉ ngạc nhiên nếu một người cầm bút dưới chế độ cộng sản tự xuất bản được một tập thơ ca tụng Tự Do, hoặc một tiểu thuyết gia phổ biến được một cuốn truyện ca tụng Con Người. Tù đày, khủng bố đã trở thành thuộc tính của chính sách văn nghệ dưới chế độ cộng sản, đến nỗi trở thành hiển nhiên, không còn ai ngạc nhiên nữa.

Tuy nhiên, bản tin trên làm cho tôi băn khoăn thật lâu, nhất là bản án dành cho một nhà văn đàn anh tôi hân hạnh quen biết và kính phục là Doãn Quốc Sỹ.

Trong các nhà văn lớp trước, tôi cho rằng Doãn Quốc Sỹ và Võ Hồng là hai cây bút có văn phong lãng mạn và một tâm hồn đôn hậu rất Việt Nam, cái chất Việt Nam nhân ái hiếu hòa, cần cù lương thiện, hớn hở vui mừng khi gặp người đồng điệu, mà cũng dứt khoát phẫn nộ nói ra thành lời khi gặp chuyện bất bằng, cái chất Việt Nam chưa bị những lý thuyết ngoại nhập làm cho thui chột để trở thành tàn nhẫn, độc địa, lai căng, lưu manh, lố bịch. Thế giới tiểu thuyết của Võ Hồng không có người đáng ghét, chỉ có đa số những người hiền, một thiểu số rất nhỏ còn lại là những kẻ đáng thương.

Thế giới tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ cũng vậy. Tuy là một trong những người sáng lập ra nhóm Sáng Tạo, ông như một người anh cả ngồi riêng một góc nhìn bạn bè cùng tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn lớn tiếng đòi tắt mặt trời, tát cạn biển, giương cao cờ; khói thuốc lá phun mù phòng khách, chai bia rỗng vất khắp nền nhà, để rồi khi tàn cuộc, bạn bè lăn quay ra ngủ, người anh cả lặng lẽ thu dọn những gạt tàn thuốc, những rác rưới lẫn lộn với quần áo bẩn, và đắp lên người họ những tấm chăn ấm.

Nhiều người trong giới cầm bút khen và cũng chê tính đôn hậu trong tiểu thuyết Doãn Quốc Sỹ. Họ lý luận rằng ông đôn hậu quá nên nhân vật tiểu thuyết của ông đẹp nhưng có vẻ không thực, ông không lột hết được bản chất phức tạp của cuộc đời, bản chất hàm hồ của con người, bản chất tàn nhẫn phi lý của lịch sử. Khi xây dựng nhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi móc những ngóc ngách xấu xa của họ. Trái lại, ông lưu tâm tô điểm những nét đẹp của họ. Những Kha, những Miên, những Hãn, những Khiết của Khu Rừng Lau, những Thiệu những Yến của Dòng Sông Định Mệnh, tuy mang cái thao thức rất-lịch-sử, nhưng lối sống của họ, lối nói năng của họ phảng phất lối nói lối sống của những Dũng, những Loan, những Độ, những Hào của Đôi Bạn, Đoạn Tuyệt. Cùng một nhóm Sáng Tạo, những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ khác một trời một vực với Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tùy Bút của Mai Thảo.

Không phải Doãn Quốc Sỹ, như một nhà nho cuối mùa, đã mất hết khả năng thích ứng và tiếp thu cái mới. Ông là người khao khát học hỏi, nhạy cảm trước sự đổi thay, và có điều kiện cũng như kiến thức tiếp xúc với cái mới hơn nhiều nhà văn đồng thời. Doãn Quốc Sỹ từng du học ở Hoa Kỳ một thời gian. Hồi hương, ông viết cuốn Sầu Mây, nhân vật chính đã có mẫu mắt xanh, mái tóc vàng, mũi cao, da trắng. Nhưng nhân vật ấy mê ca dao Việt Nam, như Miên như Kha, lãng mạn đôn hậu như Yến. Qua đôi mắt quan sát của Doãn Quốc Sỹ, qua màng lọc tâm hồn ông, Con Người được viết hoa. Ông dành chỗ rộng trong tiểu thuyết cho những người trung thực đôn hậu. Ông yêu âm nhạc, ghét những tiếng ồn, và những nhân vật ông thân yêu nếu không mê ca dao thì cũng mê thích một loại nhạc khí cổ điển nào đó, hoặc vỹ cầm, hoặc dương cầm.

Một người có tâm hồn như vậy không thể thích ứng với những nghề đòi hỏi óc mưu mẹo, đòi hỏi khả năng đối phó với nhiều hạng người phức tạp. Cũng không thể thích ứng với những vụ trình diễn chiêng trống xập xình, cờ quạt mũ mãng sặc sỡ. Nếu cho rằng cái tính trời sinh là biểu hiện của định mệnh thuyết, thì định mệnh đã dành sẵn cho Doãn Quốc Sỹ một nghề: nghề giáo. Những ước mơ cao đẹp ông ấp ủ, tình yêu người yêu đất, niềm tin ở Tự do, Công bằng, Lẽ phải, chỉ có cơ hội thực hiện và quảng bá qua hai công việc mà Doãn Quốc Sỹ cho là thích hợp nhất đối với ông: đi dạy và viết văn.

Suốt hai mươi năm trên nửa phần đất tự do của quê hương, ông đã say mê hai công việc đó. Học trò ông, độc giả của ông đã yêu mến kính phục ông qua hình ảnh một ông thầy yêu nghề, một nhà văn mực thước và nhân ái. Không có ai nhớ về Doãn Quốc Sỹ như một kẻ giương cờ gióng trống hô hào một cuộc cách mạng văn chương, hoặc một ông vua xuống đường hô hào lật đổ cái này để bày cái khác. Kể cả khi viết về những kinh nghiệm của ông trong thời kháng chiến, kinh nghiệm về người Cộng sản, Doãn Quốc Sỹ vẫn viết với giọng điềm tĩnh đôn hậu cố hữu. Ông không "nổ" như Nguyễn Mạnh Côn, không "độc" như Võ Phiến. Người Cộng sản ông từng biết thời thanh niên của ông, qua lời ông viết, là những nạn nhân của một chủ thuyết ngoại lai, không phải là tác nhân. Và đó là chủ đề những truyện ngắn chống Cộng Doãn Quốc Sỹ viết thời kỳ sau hiệp định Genève.

Nhớ về ông, phần lớn bạn bè, học trò hay độc giả nhớ tới một mẫu người Việt Nam thường thấy nên thanh tiêu biểu: hình dáng mảnh mai nhưng rắn chắc, khuôn mặt xương xương, nước da nâu, đi đứng chậm rải, và trên môi luôn có một nụ cười hiền lành. Một người ung dung và tự tín, bằng lòng với những điều mình làm và cuộc sống mình có. Theo quan niệm ngày trước, ông không phải là típ người "khẳng khái cần vương" mà thuộc loại "thung dung tựu nghĩa".

Doãn Quốc Sỹ chọn cái khó "thung dung tựu nghĩa" vì bản tính chứ không phải vì cho rằng "khẳng khái cần vương" là việc dễ không đáng làm. Sự lựa chọn đó ít va chạm quyền lợi kẻ khác, lại quảng bá tuyên xưng những điều tốt đẹp nên làm lợi cho xã hội. Lẽ công bằng bắt buộc người đời phải mến yêu ông. Lối sống ông chọn không rực rỡ, không thời thượng, thì người ta cũng sẵn sàng dành cho ông một chỗ đứng yên ổn tịch mịch, để ông tiếp tục ươm những mầm non yêu đời, yêu người, yêu tổ quốc. Doãn Quốc Sỹ được hưởng thành quả những điều mình làm trong hai mươi năm bằng một vị trí xứng đáng trên văn đàn, một địa vị tôn trọng trong giáo giới, và một nếp sống gia đình yên ấm, trong con hẻm đường Thành Thái.

Nhưng rồi tất cả đều bị đảo lộn sau 30 tháng Tư năm 1975. Trong những ngày hoang mang lơ láo đó, giới viết lách Miền Nam vẫn thường gặp nhau trên phố Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Tự Do để chứng kiến cảnh những tác phẩm tim óc của mình bị đổ từng đống hoặc bày la liệt ở vỉa hè bán solde cho những ai còn muốn giữ chút dư hương của một quá khứ đã mất. Lái sách, ngoài những tay buôn bán cũ chuyên nghiệp còn có những nhà văn, nhà thơ thất cơ lỡ vận gia nhập vào lãng. Người mua gồm đủ thành phần: những người mê sách, những người chưa hề nếm qua mùi Cộng sản tưởng 30-4-75 cũng giống như những cuộc đảo chánh chỉnh lý trước đây, những chú bộ đội tò mò, những đồng bào Miền Bắc chịu đựng mười mấy năm một gánh nặng mà không dám kêu than muốn tìm một tâm hồn đồng điệu...Tác phẩm và tác giả cùng nhìn nhau bùi ngùi giữa cảnh bát nháo hỗn loạn của cuộc đời.

Trong lúc những người khác hối tiếc không nhanh chân hay hớn hở cho hợp thời, tôi thấy Doãn Quốc Sỹ vẫn ung dung, điềm tĩnh. Ông biết rõ những gì đang chờ đợi ông, nhưng ông quyết định ở lại. Ông nói ông không thể rời bỏ quê hương được. Ông không lạc quan tếu, cũng không tuyệt vọng. Tôi nhớ ông nói nếu có gặp hoạn nạn vì những gì đã viết thì cũng đành chịu, vì không khác được. Ông phải viết những điều cần viết, và sẽ rán viết tiếp những điều cần viết. Không nói ra, nhưng chúng tôi biết ông ngầm cho rằng muốn có chất liệu viết được những điều sẽ viết, ông phải ở lại. Không hối tiếc, không hớn hở.

Ông bị bắt lần đầu giữa năm 1976, bị đày lên những trại tập trung tệ hại nhất ở cao nguyên, rồi do can thiệp của dư luận quốc tế, ông được phóng thích năm 1981. Ông ra khỏi nhà tù được vài tháng, ngẫu nhiên tôi được gặp ông trong bữa "tiệc" tối do một hoạ sĩ đứng ra khoản đãi. Anh bạn hoạ sĩ (Vũ Hối) có một bức tranh lưu lạc ở nước ngoài từ trước 1975 và có tin bạn bè ở hải ngoại gửi về cho biết tác phẩm của anh được một hàn lâm viện mỹ thuật chọn bảo tồn. Bức tranh đó, sau này tôi thấy nhiều cơ sở sản xuất tranh sơn mài ở hải ngoại lấy mẫu sản xuất hàng loạt. Anh họa sĩ vô cùng hân hoan, nên xoay một món tiền nhỏ, nhờ một người quen nấu cho nồi cà ri gà, mua bánh mì và một ít nem chả, thế là đủ làm tiệc vui khoe với thân bằng cố hữu. Tôi nhớ hôm ấy món cà ri gà còn được giặm thêm bằng tiếng đàn nguyệt của một ông hoàng Huế đa tài, và giọng ngâm của Hồ Bắc. Thơ cổ kim theo tiếng đàn khoan nhặt chỉ làm nặng lòng những kẻ bẽ bàng lơ láo là đám văn nghệ sĩ chiến bại, gồm đủ mọi ngành, hoạ có, văn có, thơ có.

Doãn Quốc Sỹ xin phép về sớm khi tiệc chưa tàn, sau khi một người trong tiệc cao hứng hứa nếu ai có tác phẩm cần gửi ra nước ngoài thì anh sẽ tìm cách giúp đỡ.

Tôi tiễn ông ra cửa. Nhà người bạn cho mượn làm nơi hội họp ở khu vắng vẻ, bên cạnh dòng sông và cách xa đường cái bằng một khu vườn. Đêm tối đen. Tôi hỏi thăm ông về những năm tháng ở trại Gia Trung, nhân tiện hỏi hư thực về tin đồn bên ngoài bảo rằng từ khi bị bắt, Doãn Quốc Sỹ cương quyết quay mặt vào tường, tọa thiền diện bích, từ chối không trả lời những câu hỏi của cán bộ chấp pháp. Ông cười, rồi nói :

- Anh em ở ngoài vì thương nên đồn đãi như vậy. Mình ở trong tay họ, làm vậy có ích gì! Cái cốt yếu là giữ được tư cách dù ở trong tay họ.

Ông nói câu ấy với giọng bình thường, không cao giọng, không bậm môi rướn cổ. Ánh đèn từ trong nhà lọt qua cửa kính, khuôn mặt của ông trông xương xương hơn xưa, nhưng ánh mắt vẫn sáng vui. Nhân tiện, tôi chào từ biệt ông, thấp giọng thú thực tuần sau tôi sẽ vượt biên. Ông im lặng một lúc, rồi nói :

- Anh em lần lượt đi hết, cũng buồn. Nhưng nếu không thể ở lại được nữa, thì cũng đành vậy. Qua bên đó có khi lại viết được những điều cần viết.

Nghe ông nói, lòng tôi nhẹ lại. Trước đó, đôi lúc không nhịn được, tôi thố lộ chuyện toan tính ra đi với vài bạn thân, họ đều có giọng trách. Tôi phải nại cớ này cớ nọ: nào sống lêu bêu vô tích sự chỉ làm gánh nặng cho vợ con, nào không thể sống mãi trong trạng thái hồi hộp, nào mình không phải là loại activiste, militant. Câu trả lời của Doãn Quốc Sỹ đầy thông cảm và nhân ái, tôi xem như một món quà ý nghĩa một người đàn anh gửi cho người em vào lúc giã biệt.

Chuyến đi ấy thất bại, và tôi chỉ đi thoát vào chuyến thứ năm, cuối năm 1981.

Cuối năm 1982, tôi được đi định cư tại thành phố Houston Hoa Kỳ sau 11 tháng chờ đợi ở đảo. Đặt chân lên miền đất tự do, tôi ngấu nghiến đọc hết sách báo của bảy năm lưu vong. Trong một vài truyện ngắn, trong một cuốn tuyển tập, tôi nhận ra được cái văn phong đôn hậu thung dung và lãng mạn một thuở. Tôi đoán già đoán non tác giả, và được một vài bạn hữu lấp lửng xác nhận.

Doãn Quốc Sỹ đã viết những điều cần viết, và sẵn sàng ung dung chấp nhận tất cả mọi hậu quả, trong khi không bao giờ, phải, ông không bao giờ tự nhận mình là một chiến sĩ, một người đấu tranh. Trước sau ông vẫn là một nhà giáo kiêm nhà văn, với tất cả ý nghĩa cao đẹp của hai nghiệp vụ đó.


Nguyễn Mộng Giác (Nguồn: tạp chí Văn Học số 31, tháng Tám 1988)



Nhà Văn DOÃN QUỐC SỸ...

trích trong "Thay Lời Tựa dành cho tập truyện Cò Đùm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ [Nhà xuất bản Văn Nghệ, Westminster, CA, USA 1997] by Hoàng Khởi Phong

. . . . . . .

Năm 1963, tôi hai mươi tuổi, nằm trong quân trường Thủ Đức. Tôi đọc cuốn đầu của bộ trường thiên tiểu thuyết bốn cuốn "Khu rừng lau", của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Bên ngoài hàng rào quân trường, xã hội miền Nam đang trải qua những cơn bão tố chính trị. Thời đó ông chỉ mới hoàn tất cuốn đầu: "Ba sinh hương lửa - 1962", để rồi những năm sau, trôi nổi trong đời quân ngũ, lúc nào tôi cũng quan tâm đến các phần còn lại của bộ trường thiên tiểu thuyết này: "Người đàn bà bên kia vĩ tuyến", 1964 - Tình yêu thánh hóa, 1965 và "Đàm thoại độc thoại", 1966.


Cách ông đặt tên cho toàn bộ trường thiên, cũng như từng phần cho thấy trong tác phẩm này, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã bầy trước mặt ông quá nhiều vấn đề, quá nhiều mong ước. Éo le thay giải quyết các vấn đề này, cũng như làm đầy những ước mơ này, không nằm trong tay các nhà văn. Đau lòng hơn thế, suốt trong hơn hai thế kỷ cận đại, chưa bao giờ số phần của dân tộc Việt Nam, nằm trong tay dân tộc Việt Nam. Trong bộ trường thiên này, người đọc nhận thấy những biến đổi của chính trị, xã hội bên ngoài, khiến cho Doãn Quốc Sỹ nhìn lại chỗ đứng của ông. Ông đã chọn lầm vị trí khi rời nhà ra đi, tham gia kháng chiến. Chẳng lẽ ông lại lầm một lần nữa?


Một đàng là những bạo tàn đến từ phương Bắc, một đàng là những ung thối của miền Nam. Nhà văn đứng giữa cô đơn biết dường nào. Doãn Quốc Sỹ đã ký thác tâm trạng băn khoăn của chính ông, đan những suy nghĩ dầy dặc của ông, vào hành động của các nhân vật trong bộ trường thiên này. Ông vẫn giữ được trọn vẹn lòng nhân ái cũ, nhưng chen vào đó là những phút bâng khuâng, những câu hỏi về ngày mai. Giọng văn tha thiết với người, với đời còn đó, nhưng niềm tin bạt núi vào tương lai quả có sứt mẻ khá nhiều. Trong cung cách một nhà giáo, đào tạo những nhà giáo khác của ngành Sư Phạm, may thay ông còn được một ngõ thoát khác: Ông đã trực tiếp chuyển những chân thành nơi ông, sang những người học trò của ông nơi ghế nhà trường, ủy thác cho những nhà giáo tương lai việc trao truyền lại "thông điệp nhân ái", mà ông đã dùng những tác phẩm văn chương của ông như một phương tiện để truyền đạt.


3- Năm 1975 ập tới, thế hệ của tôi mang về cho tổ quốc một kết quả tương tự như thế hệ Doãn Quốc Sỹ. Thế hệ của ông tuy thất bại, dẫu sao nữa vẫn còn giữ được cho chúng tôi một khoảnh đất tự do, một chút vốn liếng cuối cùng. Thế mà thế hệ chúng tôi nỡ lòng nào đánh mất cái vốn liếng cuối cùng này, để đến nỗi toàn bộ xứ sở chìm trong tù ngục. Tháng Tư năm 75, khi những người Cộng Sản ngoài Bắc tràn vô chiếm lãnh Sài Gòn, Doãn Quốc Sỹ đã không may mắn như năm 54. Ông ở lại và nhận lấy hậu quả nơi những dòng chữ chuyên chở lòng thương yêu của ông. Ông bị Cộng Sản giam giữ cùng với nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo của miền Nam. Nhiều người đã nằm xuống trong hàng rào, nhiều người được phóng thích, nhưng khi ra khỏi cổng nhà giam, chỉ còn là một thân xác bất động, thân nhân chỉ còn một thời gian rất ngắn kịp chạy ma chay. Tha về để trại giam tiết kiệm được một xuất cơm mỗi ngày, vài viên thuốc hết hạn, và một vài miếng ván đóng quan tài.


Cũng như bao người khác, thoạt mới bị giam giữ Doãn Quốc Sỹ bị bao trùm bởi sự sợ hãi. Nhưng nhờ đã có kinh nghiệm với người Cộng Sản trước kia, và nhờ ý chí mạnh ông đã qua khỏi được giai đoạn kinh hoàng khi mới bị bắt giam. Ông tiết kiệm từng hơi thở, gìn giữ mỗi cử chỉ, cốt để cho những người quản giáo không có cơ hội xúc phạm tới nhân phẩm của ông. Ông hít sâu vào lồng ngực, thở ra chậm chạp, như thở của một tu sĩ trong cơn tọa thiền. Vả lại nhà văn là những người có khả năng phân thân, có thể nhẩy lùi lại quá khứ, sống cuộc đời trăm năm trước, hay phóng mình tới xã hội của trăm năm sau, do đó thân tuy bị giam trong ngục tối, nhưng hồn thì ở cuối chân trời. Tuy bị bóng tối bao phủ, nhưng trong mắt nhìn của nhà văn, ông bắt gặp những mầu sắc tươi đẹp của ngày mai.


Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn của miền Nam được "chiếu cố" kỹ nhất. Nếu như trước kia ông không về thành, với khả năng của ông, có thể ông đã là một trong những người di rao giảng chiến thắng. Nhưng hơn hai chục năm trước, ông đã chọn vị trí cho riêng ông, ông đã đứng trong hàng ngũ của kẻ hôm nay chiến bại, nên vì thế mà những tác phẩm ông viết, đã bị những người được gọi là "nhà văn" xăm soi từng chữ, từng dòng. Người ta dùng kính lúp chiếu lên từng cái chấm, từng dấu phẩy trong những trang sách này, mong tìm tòi gán ghép cho nhà văn, những tội danh không tưởng. Song song với việc khai báo trong những lần làm việc với "chấp pháp", lúc nào ông cũng nghĩ tới việc sử dụng ngòi bút khi ra tù. Chính vì vậy mà những năm đầu 80, sau khi ông được thả lần đầu, độc giả hải ngoại được đọc tác phẩm "Đi" của "Hồ Khanh", từ trong nước chuyển ra hải ngoại. Hồ Khanh chính là bút hiệu "viết chui" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Trước sau ông bị bắt đi thả lại nhiều lần. Ông bị giam hơn 10 năm, và đặt chân tới Mỹ tháng Hai năm 1995. Ông đã 72 tuổi, đủ để bước vào cái tuổi mà các cụ cho là thất thập cổ lai hy. Ngay khi đặt chân xuống vùng đất mới, con người nhà văn trong ông sống lại, ông làm quen với những độc giả cũ của ông với ba tác phẩm: "Mình lại soi mình, Người vái tứ phương, Dấu chân cát xóa" mà trong đó có cuốn "Dấu chân cát xóa" là một tác phẩm được viết vào năm 1974, chưa kịp mang đến nhà in thì tai họa đã ập xuống đầu cả nước.
Những ai đã từng yêu Doãn Quốc Sỹ, nhận ngay ra văn phong của ông trong ba tác phẩm này. Ông là một ngòi bút dùng để tuyên dương điều thiện, cái đẹp, thế mà ông bị giam hãm trong một vùng đất mà tính ác và điều xấu bao trùm tới khóm cây ngọn cỏ. Thêm vào đó gần hai chục năm đắm chìm trong suy nghĩ, không có dịp cầm bút, nên cái nhịp của các tác phẩm này chậm chạp, các nhân vật ít linh hoạt hơn, so với những nhân vật trong các tác phẩm trước kia của Doãn Quốc Sỹ. - hết trích-

Hoàng Khởi Phong
. . . . . . .



Tiểu Sử Nhà Văn DOÃN QUỐC SỸ (by Tạp Chí Văn Học số 31, tháng 8, 1988)



* * *

Bài của nhà văn Đào Trường Phúc (9 trang, by Tạp Chí Văn Học số 31, tháng 8, 1988):





- Bài liên quan: THẦM LẶNG - by Kim Khánh (ái nữ nhà văn, tù nhân chính trị Doãn Quốc Sỹ)



*

0 nhận xét:

Post a Comment